Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2011

Đọc chuyện đêm khuya :sự tích Vinashin

Đọc truyện đêm khuya: Sự tích VinaShin

Đây là phần tiếp theo trong cuốn sách “Vietnam – Rising Dragon” (Việt Nam – con rồng trỗi dậy) của Bill Hayton, nguyên phóng viên BBC tại Hà Nội. Tiêu đề của phần này do người dịch đặt. Quan điểm của người dịch không nhất thiết trùng quan điểm của tác giả. Người dịch không chịu trách nhiệm về việc kiểm chứng thông tin trong bài viết.

* * *

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một phần rất dễ nhìn thấy trong nền kinh tế. Huy động tới hàng triệu nhân công và đóng góp rất nhiều thuế, nhưng nó lại không chi phối nổi những đỉnh cao chỉ huy (*). Công ty có vốn đầu tư nước ngoài vẫn bị nhà nước kiểm soát, ít nhất là trên lý thuyết. Năm 2005, 122 trong số 200 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Số liệu đã thay đổi chút ít kể từ đó, mặc dù một số ngân hàng tư nhân giờ đây đang sánh kịp bạn bè. Đối với Đảng, khu vực nhà nước mạnh là cách để họ duy trì sự tự chủ của quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa. Nghĩa là Đảng có thể vẫn đặt ra những mục tiêu lớn – như là quyết định phát triển “kinh tế biển” vào tháng 12 năm 2006 - một khái niệm rộng mênh mông bao trùm tất cả mọi thứ từ dầu đến cá và tàu. Đảng cũng quyết tâm duy trì mức độ kiểm soát cao của nhà nước đối với tất cả các lĩnh vực quan trọng chiến lược như tài nguyên thiên nhiên, vận tải, tài chính, cơ sở hạ tầng, quốc phòng và truyền thông.

Đảng đã rút ra bài học từ những lỗi lầm trong quá khứ: cách ly doanh nghiệp quốc doanh khỏi thế giới bên ngoài chẳng mang lại lợi ích gì cho đất nước – để thịnh vượng, họ cần vốn đầu tư mới và những kỹ năng quản lý, kỹ thuật hiện đại. Họ đã sẵn sàng sử dụng tất cả các mẹo mực trong sách vở tư bản để kích thích phần xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế cất cánh. Doanh nghiệp được tự do lập các liên doanh với đối tác nước ngoài và bán cổ phiếu cho nhà đầu tư ngoại quốc, thậm chí là “cổ phần hóa” (từ “tư nhân hóa” vẫn bị nghi hoặc về mặt chính trị) – chỉ miễn là toàn bộ khâu quản lý phải tuân theo lệnh Đảng. Đổi lại, các DNNN nhận được sự hỗ trợ ưu đãi của chính phủ. Một trong những ví dụ rõ ràng nhất, tuy không phải duy nhất, là tập đoàn Công nghiệp Đóng tàu Việt Nam: VinaShin.

VinaShin có mục tiêu đầy tham vọng: đưa Việt Nam thành quốc gia đóng tàu đứng thứ tư thế giới vào năm 2018. Một trong những biện pháp để họ làm điều này là sử dụng hỗ trợ tài chính của nhà nước để đóng tàu rẻ hơn bất kỳ nơi nào khác. Một trong những kẻ hưởng lợi là công ty Anh, Graig. Nằm ở thủ phủ Cardiff của xứ Wales, Graig chuyên đặt mua những tàu vận tải cỡ lớn và sau đấy bán chúng đi, chẳng khác gì mua bán ngựa thồ trong mậu dịch biển quốc tế. Tàu “Diamond 53s” của họ, trọng tải toàn phần 53.000 tấn, đặc biệt thành công. Hầu hết tàu của Graig được đóng ở Trung Quốc, nhưng vào năm 2004, VinaShin trúng một hợp đồng đóng 15 chiếc tàu với tổng giá 322 triệu USD. Hợp đồng không bao giờ có thể được ký nếu không có sự hậu thuẫn của ngân hàng. Cơ sở vật chất và kỹ năng ban đầu của VinaShin kém đến mức Graig cần một sự bảo đảm rằng họ sẽ được nhận lại tiền nếu tàu không nổi trên mặt nước. Nhưng các ngân hàng tư nhân không cung cấp khoản bảo lãnh và lúc đầu thì các ngân hàng quốc doanh cũng từ chối. Chỉ đến khi đích thân Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo khối ngân hàng quốc doanh tiến hành bảo lãnh, một ngày trước khi hợp đồng phải ký theo kế hoạch, thì mọi sự mới được xúc tiến.

Cho đến tháng 4 năm 2006, con tàu đầu tiên đã sẵn sàng hạ thủy ở bãi tàu Hạ Long, thuộc tỉnh Quảng Ninh, cực đông bắc Việt Nam. Đó là một sự kiện trọng đại. Tàu Florence là con tàu lớn nhất từng được đóng ở Việt Nam. Vào ngày hạ thủy, thân tàu màu đỏ - đen, dài 190 mét, cao vượt hẳn lên trên đầu đám đông tới 30 mét. Công nhân đóng tàu im hơi lặng tiếng, còn những người ở cấp cao hơn họ được mời tới dự sự kiện trọng đại thì đều có mặt. Đấy là khoảnh khắc quyết định đối với nền công nghiệp hàng hải Việt Nam. Lệnh ban ra, tàu Florence bắt đầu xuống đường trượt. Mọi người đều vỗ tay kéo dài một lúc. Nhưng vài giờ sau đó, sự rầm rĩ bị thay bằng nỗi xấu hổ. Florence bị một vết nứt – hầm số 4 (trong số 5 hầm) ngập đầy nước. Đây không phải điều VinaShin muốn công bố trong ngày hôm ấy, ngày được coi là đánh dấu sự gia nhập của Việt Nam vào liên minh các nước đóng tàu lớn. Báo chí đưa ra vài lời giải thích: rằng thì là một khối dầm gỗ rơi vào tàu trong quá trình hạ thủy và xé một lỗ đường kính 1 mét trên thân tàu; đường trượt được xây quá ngắn và quá dốc nên thân tàu bị nứt khi tiếp nước. Mặc dù (đã tiếp nhận) những khóa đào tạo và lời tư vấn từ Graig, VinaShin rõ ràng cần học hỏi thêm về ngành đóng tàu.

Tuy nhiên, lỗ thủng được hàn và tàu Florence giờ đây đã an toàn lướt trên đại dương, cùng với vài con tàu Diamond 53s khác do Việt Nam đóng. Kể từ lần hạ thủy kém may mắn đó, Graig đã tăng cường ký kết hợp đồng với VinaShin, thuê đóng thêm 29 tàu Diamond 53s và 10 Diamond 34s nhỏ hơn – tổng trị giá 1 tỷ USD. Nhưng nhà kinh tế trường Harvard David Dapice đã thắc mắc: làm thế nào mà cả Việt Nam có thể hưởng lợi từ hợp đồng, nếu xét đến khoản ngân sách phình to dồn cho VinaShin. Ông ước tính, công ty có thể thua lỗ tới 10 triệu USD cho mỗi con tàu trong mẻ 15 tàu đầu tiên đóng cho Graig, và ông đặt vấn đề liệu đây có phải cách tiêu tiền tốt nhất của một nước nghèo? Nhưng lúc này, các mối quan tâm khác đã xác định chương trình nghị sự. VinaShin là phần thiết yếu trong chiến lược “kinh tế biển” và vì thế, ít nhất là vào thời điểm đó, nó có rất nhiều việc đã chậm trễ cần phải làm để đạt được điều mình muốn – như là chịu lỗ một khoản khổng lồ trong hợp đồng để rút ra kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết cho tương lai. Nhưng đây không phải việc duy nhất VinaShin làm với số tiền đi vay dễ dàng của họ. Giống như nhiều tập đoàn nhà nước lớn khác, VinaShin dịch chuyển sự chú ý từ nhiệm vụ chính yếu của họ sang những lĩnh vực tiềm ẩn các dấu hiệu rắc rối lớn cho Việt Nam.

Một phần khoản tiền đi vay kia dồn vào ngành đóng tàu, nhưng suốt cả năm 2007, VinaShin thành lập 154 công ty con – cứ một ngày rưỡi lại mở một công ty mới, kể cả cuối tuần. Trong số những cơ sở đầu tư mới này có một nhà máy bia và một tổ hợp khách sạn ở tỉnh Nam Định. Đương nhiên không chỉ có VinaShin như thế. PetroVietnam, nhà độc quyền sản xuất dầu mỏ của đất nước, cũng chuyển sang kinh doanh khách sạn, còn các DNNN khác thì xây bất động sản xa xỉ. Trong hai năm 2007, 2008, những khoản đầu tư như thế góp phần thổi lên một bong bóng bất động sản khổng lồ. Nhưng còn nguy hiểm hơn cho đất nước là việc các DNNN bước vào lĩnh vực tài chính. Việt Nam đang đi đúng vào con đường quen thuộc của Đông Á. Các tập đoàn nhà nước lớn nhất lập nên những kênh vốn không minh bạch để tài trợ cho những dự án mà tính khả thi về kinh tế là tối thiểu. Cho tới tháng 6 năm 2008, 28 tập đoàn nhà nước đã chi khoảng 1,5 tỷ USD để xây dựng hoặc mua lại cổ phần kiểm soát ở các công ty quản lý quỹ, công ty môi giới chứng khoán, ngân hàng thương mại và ngân hàng bảo hiểm. Ba phần tư số công ty tài chính Việt Nam hiện do những tập đoàn nhà nước lớn nhất (còn gọi là Tổng Công ty) sở hữu. Các tập đoàn xi măng, than, cao su, mỗi đơn vị đều nắm ít nhất một công ty tài chính. Theo luật Việt Nam, “công ty tài chính” gần như giống hệt ngân hàng, trừ việc nó không thể thanh toán nợ. Nhưng một số Tổng Công ty bây giờ cũng đã có cổ phần ở ngân hàng. VinaShin sở hữu một phần Ngân hàng Nhà Hà Nội (Habubank), và còn vài ví dụ khác nữa. Nhiều DNNN đã mua lại, dưới hình thức cổ phần, hợp đồng giao dịch của các công ty chứng khoán.

Tổng hợp tất cả những điều này lại, sẽ thấy một vài tập đoàn nhà nước lớn nhất của Việt Nam có tiềm năng trở thành những “chiếc hộp đen” tự đầu tư. Các thỏa thuận về quỹ này quỹ nọ đều không minh bạch. Cuối năm 2008 chẳng hạn, Điện lực Việt Nam (EVN) sở hữu 40% công ty tài chính EVN (EVN Finance) và 28% ngân hàng ABB, đổi lại ngân hàng sở hữu 8% EVN Finance. Để hoàn tất cái vòng luẩn quẩn này, cả ABB lẫn EVN đều sở hữu những công ty chứng khoán có cổ phần ở EVN Finance. Nói theo ngôn ngữ của một báo cáo gần đây cho Chương trình Phát triển của LHQ ở Việt Nam, “Các Tổng Công ty có thể bảo lãnh, mua lại, bán đi, thao túng và hưởng lợi từ việc cổ phần hóa các công ty thành viên của họ”. Vô số cơ hội nảy sinh cho những hành vi vô đạo đức, vi phạm pháp luật và gây mất ổn định quốc gia. Giám đốc các Tổng Công ty tưởng rằng họ có thể kiếm nhiều hơn bằng việc kinh doanh một cách tài tử ở những lĩnh vực khác thay vì trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Như một quan chức cao cấp ở tập đoàn dầu khí độc quyền PetroVietnam đã nói với báo chí: “Điều quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp là hiệu quả kinh doanh. Hơn 40% thu nhập của tập đoàn chúng tôi đến từ những ngành không phải dầu khí. Chúng tôi biết mình phải tập trung vào những lĩnh vực kinh doanh chủ yếu, song nếu đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là không hiệu quả, thì tại sao chúng tôi lại phải đầu tư?”. Mặc dù đã hưởng lợi từ sự hào phóng của nhà nước, nhưng các vị giám đốc công ty vẫn thường chăm lo tự tưởng thưởng cho mình hơn là lo đến tài sản chiến lược của quốc gia.

Lãnh đạo Đảng Cộng sản thích DNNN, bởi vì DNNN có thể thực thi chính sách của họ. Đảng viên nào quản lý DNNN có thể được lệnh triển khai chính sách của Đảng. Nhưng nhiều vị giám đốc thích làm quản lý ở DNNN bởi vì chỗ ấy cung cấp cho họ vô vàn cơ hội làm giàu cá nhân. Lập một công ty con và tự chỉ định mình vào ban quản trị là cách kiếm tiền cực dễ. Một cách nữa là lập công ty tư nhân cho bạn bè hoặc họ hàng quản lý, rồi bán rẻ tài sản của công ty đó đi, hoặc là ban cho nó những hợp đồng béo bở. Kiếm tiền dễ như thế, không khó để hối lộ kiểm soát viên và quan chức để họ làm ngơ trước những hành vi vi phạm pháp luật. Các đảng viên chịu trách nhiệm quản lý “cái đuôi” DNNN rút cục thường là bỏ quên chính sách “chó” của Đảng. Nhưng đây chưa phải đã hết chuyện. Điều đáng lưu ý đối với trường hợp Việt Nam là cái cách Đảng Cộng sản kỷ luật những đảng viên có sai phạm, vào thời điểm khủng hoảng.

CHÚ THÍCH

(*) Những đỉnh cao chỉ huy (commanding heights) của nền kinh tế là khái niệm do Lenin sử dụng để chỉ những ngành kinh tế có thể kiểm soát được và hỗ trợ được cho các ngành khác. Có thể hiểu chúng như những ngành "mũi nhọn" của nền kinh tế, chẳng hạn dầu khí, thép, điện lực... Gần đây có quan điểm cho rằng giáo dục và y tế cũng có thể được coi là các "đỉnh cao chỉ huy" mới. (chú thích của người dịch)

* * *

Đoan Trang biên dịch.

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2011

Nga xây dựng nhà máy sửa chữa tàu tại Cam Ranh

Báo Đất Việt cho biết :
Công ty Zvezdochka, Nga vừa hội đàm với phía Việt Nam về việc xây dựng lại nhà máy đóng tàu tại Cam Ranh.

Trong cuộc hội đàm này, các bên đã thảo luận về các vấn đề như cung cấp phụ tùng, các dịch vụ sửa chữa và nâng cấp hiện đại hóa lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam cùng với việc trong tương lai, Zvezdochka sẽ xây dựng lại nhà máy đóng tàu tại Cam Ranh.

Trong cuộc gặp, Tổng giám đốc Zvezdochka Vladimir Nikitin và phía Việt Nam đã ký kết bản dự thảo về việc chuyển giao các loại phụ tùng thay thế cho tàu chiến của Hải quân nhân dân Việt Nam.

Căn cứ hải quân Cam Ranh khi liên bang Xô Viết còn hiện diện tại đây.

Đáng chú ý là sự kiện này đã đánh dấu sự có mặt của Zvezdochka trong danh sách những nhà cung cấp vũ khí và thiết bị quân sự cho Việt Nam.

Zvezdochka là công ty chuyên về đóng mới và sửa chữa tàu biển có trụ sở tại vùng Arkhangelsk, Liên bang Nga.

Trong lịch sử, công ty này cũng tham gia cả vào các chương trình sửa chữa, nâng cấp tàu ngầm nguyên tử của Liên bang Xô Viết cũng như Liên bang Nga sau này.

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

Chiếc neo 300 năm tuổi tìm thấy trên sông Hồng

Chuyện ly kỳ về chiếc mỏ neo 300 tuổi

Buổi sáng định mệnh

Đấy là một buổi sáng định mệnh của mùa hè tháng 6/1999, lão thuyền chài Nguyễn Văn Mười vẫn lụi cụi và âm thầm làm công việc mưu sinh đã nuôi sống ông và gia đình mấy chục năm nay: đi xăm củi dưới lòng sông. Sông Hồng khu vực bãi giữa, xưa kia là bến Gỗ - nơi tập kết gỗ từ mạn ngược đổ về Hà Nội bằng đường thủy.

Lão Mười kể, thuở ấy, dễ đến ngót thế kỷ, phương tiện vận chuyển duy nhất để người miền xuôi “ăn hàng gỗ” từ mạn ngược, đấy là hình thức đóng gỗ thành bè, thả trôi sông Hồng. Vì thời gian dài như thế nên rất nhiều củi gỗ bị chìm dưới đáy sông, bị lớp phù sa sông Hồng vùi lấp, nên không biết cơ man nào là củi…

Dụng cụ hành nghề của lão Mười khá đơn giản: một cây sào dài ngót hai chục mét, bằng thân cây tre đực, khá nặng, vót nhọn một đầu. Lão Mười cùng con trai giong thuyền ra giữa dòng sông Cái. Trong lúc con trai điều khiển con thuyền ra đúng lạch nước và dừng lại, để tự trôi thì lão xăm xắn cầm sào xăm từng nhát xuống dưới đáy sông.

Khi chạm vật cứng, cái âm thanh và cảm giác truyền qua cây sào, bằng kinh nghiệm lão sẽ nhanh chóng mà biết được, hôm đó có “ăn hàng” hay không…

Lão thuyền chài Nguyễn Văn Mười - Ảnh: Kiên Trung

Khoảng 9h sáng, cây sào của lão Mười truyền tín hiệu lên bàn tay ông lão: một tiếng “pực” rất chắc, gọn – âm thanh của đầu sào tiếp xúc với vật cứng. Để chắc chắn, lão Mười đâm thêm chục nhát nữa, di chuyển trong bán kính khoảng chục mét, vẫn thấy một âm thanh đanh, gọn truyền lên như vậy.

“Khi ấy, tôi cứ chắc mẩm phen này được mớ gỗ to, “hẻo” nhất cũng phải cả tấn củi chứ ít ỏi gì. Nhưng, hóa ra còn vượt cả khả năng tôi dự đoán…” – lão Mười hể hả.

Hai chiếc mỏ neo cổ có niên đại vài trăm năm tuổi - Ảnh: Kiên Trung

Đợi con trai thả neo chiếc thuyền ở khu vực sông vừa “khoanh vùng”, lão Mười hít một bụng hơi đầy rồi nhao xuống sông lặn dò tìm đống củi mà lão vừa xăm được. Ở khúc sông bến Gỗ này, lão Mười là con rái cá và có kinh nghiệm sông nước lâu năm nhất.

Sáu đứa con cả dâu cả rể, cùng với hai ông bà lão già kết lại thành một xóm thuyền chài gần khu vực bãi giữa. Và đương nhiên, lão là người “chỉ huy” và điều hành sáu hộ gia đình này, rất ra dáng của một người thủ lĩnh.

Vẫn câu chuyện của buổi sáng may mắn. Lão Mười lặn một hơi xuống đáy sông thì thấy một đống củi gỗ tròn, dạng như gỗ chống hầm lò khai thác than, ước vài chục cây, đường kính chừng 60cm. Lão làm hiệu cho con trai đứng trên thuyền thả một đầu dây xuống. Kéo hết đống củi thì cũng non trưa, hai cha con định bụng chiều sẽ nghỉ ngơi, vì dẫu sao mớ củi gỗ thu được buổi sáng hôm ấy bán đi cũng đủ cho gia đình chi tiêu cả tuần lễ.

Nhưng, kéo hết đám củi lên thì có chuyện…

“Vớt hết đám củi gỗ tròn lên thì tôi lại thấy một vật cứng, dài, và có vẻ khá kềnh càng. Gạt lớp bùn ra và sờ, rồi bơi lần theo cái thớ gỗ ấy tôi không tài nào đoán được nó là cái gì. Trước tới giờ, số lần vớt củi nhiều đến mức không đếm xuể, nhưng chưa bao giờ thấy đống củi nào có hình thù lạ thế!”.

Trục vớt cổ vật

Lúc ấy khoảng gần 11h trưa. Mặt trời đã chính ngọ. Vừa mừng vừa vui, lại hồi hộp, tò mò vì ngày làm việc may mắn, lão Mười quay thuyền về nhà huy động thêm đám dâu rể con cái, thảy được 8 người. Anh con trai út của lão Mười khuyên bố, cứ thong thả, về nhà ăn uống nghỉ ngơi, vật vẫn nằm đó, mà khúc sông này, từ cầu Nhật Tân chạy xuôi tít mạn Thanh Trì là “địa bàn” của gia đình lão, không ai có quyền khai thác, đánh bắt hay có bất cứ hoạt động liên quan tới việc… mưu sinh.

Luật sông nước phân chia khúc sông, địa bàn là như vậy, hàng trăm năm rồi vẫn thế, và được giới vạn chài chấp nhận như là một mặc định.

Nhưng lão Mười không nghe lời con. Bốn chiếc thuyền được huy động, tín chuyện kết lại với nhau thành một khối vững chãi, hệt như kiểu Chu Du bày kế để Tào Tháo ken chiến thuyền lại thành một chuỗi. Dây chão được đem ra. Hai gã trai trẻ lực điền được cử xuống cùng với lão Mười, lựa vị trí chắc chắn để chốt một đầu chão vào.

Năm người còn lại đứng trên thuyền có nhiệm vụ… tời dây chão. Vì gia đình lão là những con rái cá thực thụ, lại dựa vào sông nước mưu sinh nên mấy chục năm trời, mấy bố con cũng bóp mồm bóp miệng đầu tư một cái thuyền có đầu máy nổ, trên đó có thiết bị ròng rọc tời bằng tay.

Chiếc dây chão căng theo những vòng tời. Càng lên đến gần mặt nước, sức nặng của tải trọng càng lớn. Những cánh tay lực điền phải gồng sức, cong lên những múi bắp như thớ cầu vồng…

“Lâu ngày, lại bị ngâm nước nên cái “vật thổ tả” ấy nặng như chì, cảm giác phải nặng vài tấn chứ chẳng phải ít. Non một tiếng thì cái đầu nó bắt đầu nhô lên mặt nước. Đầu gỗ nhọn, có bịt sắt” – lão Mười hay chuyện – “Rồi qua một đoạn gỗ, nó thò thêm được một cái đầu cũng có hình dáng tương tự, một lúc nữa thì nhô lên cái thân. Dài lắm, ngót hai chục mét lận… Hóa ra nó là cái mỏ neo chú ạ. Nhưng, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ, chưa bao giờ tôi nhìn thấy cái mỏ neo nào nó to đến thế, lại bằng gỗ liền thân, không chắp vá. Phen này thì được mớ củi to rồi”.

Gương mặt lão Mười giãn nở theo câu chuyện. Đang mùa lũ, nước sông Hồng chảy xiết. “Khúc củi” thân chính dài hơn 4 mét, hai cái ngạnh hai bên, mỗi cái dài thước rưỡi, đường kính chừng 30cm. Chiếc thuyền trọng tải 5 tấn của cha con ông chòng chành theo những lần khúc củi lắc lư. Gần hai tiếng đồng hồ thì cha con lão Mười đưa được “khúc củi” lên mặt nước, nằm yên vị trên thuyền.

Dụng cụ xăm gỗ của lão thuyền chài Nguyễn Văn Mười - Ảnh: Kiên Trung

Lão Mười không biết chữ. Nhưng, những gì đã chảy qua cuộc đời lão, lão nhớ rành mạch, không sót một chi tiết nào. Vẫn câu chuyện của lão Mười: “Tháng 10 ta năm ngoái, cũng trong một lần đi xăm gỗ, tôi còn vớt được một loạt súng, kiếm…, nhưng đã han rỉ hết cả. Gọi đồng nát đến bán được mấy triệu bạc. Tôi thấy mình cũng may mắn. Cái khúc sông này nó cũng cho mình nhiều thứ, nuôi sống cả gia đình mình, kể cả bây giờ khi con cháu đã đàn đàn lũ lũ, và đám thuyền nhà tôi neo ở bãi Giữa cũng thành một cái xóm vạn chài sầm uất rồi…”.

Chuyên gia Tây đã vào cuộc "chuyên án mỏ neo cổ" - Ảnh: Kiên Trung

Trở về chuyện chiếc mỏ neo cổ mà lão vớt được vào mùa hè năm 1999. Chừng ngót một tháng sau, ông Quách Văn Địch – chủ một quán bia hơi ở Hà Nội tình cờ lạc bước, rồi chẳng biết trời đất xui khiến thế nào, ông Địch cứ nhất khoát mua chiếc mỏ neo về để bày ở quán bia… cho vui, như là một hình ảnh độc đáo để khách bia bọt nhớ đến cái quán của ông mà tìm cho dễ.

Và, cái quyết định “kỳ quái” của ông Địch ngày ấy, chẳng biết may cho lão Mười hay may cho chiếc mỏ neo, mà bây giờ, chiếc mỏ neo ấy được các chuyên gia Tây vào cuộc nghiên cứu, khẳng định nó là cổ vật từ thế kỷ… 15.

  • Kiên Trung

Kỳ 2: Chuyên gia Tây vào cuộc “chuyên án mỏ neo cổ”

Bài 2:
Chiếc mỏ neo giá bạc tỷ trên sông Hồng
- Câu chuyện tưởng như sẽ khép lại khi một ông chủ quán chuyên quan tâm đến bia bọt bỗng dưng lạc bước đến bờ sông Hồng, nơi có “khúc củi” của lão thuyền chài Nguyễn Văn Mười để ở đó, nhưng...

Cuộc tầm nã và đánh vật của ông chủ quán bia

Ông Quách Văn Địch – chủ một quán bia ở Hà Nội, là người nhanh nhẹn, quyết đoán. Có thể vì thế nên việc ông gặp và rất nhanh sau đó đã quyết định “khênh” khúc củi mục đó về, để trong quán bia, sau này quán bia dẹp, ông khuân nó về theo những lần chuyển nhà. Bẵng đi, hơn chục năm trời ông là người chung sống với cổ vật sông Hồng.

Ông chủ quán bia Quách Văn Địch bên chiếc mỏ neo mà ông đã "tầm nã" được. - Ảnh: Kiên Trung

Đó là một buổi sáng mùa hè năm 1999, sau khi lão thuyền chài Nguyễn Văn Mười vớt được chiếc mỏ neo khổng lồ được ngót một tháng. Ông Địch có bà con họ hàng ở mạn Hàm Tử Quan nên nhấp nhổm đến thăm. Đến bãi sông, ông nhìn thấy chiếc mỏ neo và dựng tóc gáy vì sửng sốt.

Chiếc mỏ neo gỗ có hình dáng kỳ lạ chưa từng được nhắc đến: thân chính của mỏ neo dài gần chục thước; hai ngạnh hai bên được ghì với thân chính bằng một cái đai sắt, và lại được “khóa” thêm bằng một lần dây chão quấn ghì nhiều vòng, kiểu buộc chỉ có thít chặt vào chứ không bao giờ mở ra. Độ mở của hai chiếc ngạnh hai bên từ vị trí thân trụ của mỏ neo, mỗi bên cũng gần ba thước.

Ban đầu, ông Địch nghĩ đó là một mô hình người ta dựng lên để làm trang trí không gian cổng vào của bến tàu du lịch sông Hồng. Thế nhưng, xem kỹ, ông mới thấy kỳ lạ bởi nước gỗ đã xám xịt màu thời gian; những dăm gỗ trên bề mặt trục chính và hai ngạnh bị nước và nóng làm nở ra, đều tăm tắp hệt như một bức tranh sắp đặt mà ai đó cố tình tạo ra.

Sẵn có quán hàng ăn mà hai vợ chồng ông mở lấy kế sinh nhai, ý định mua chiếc mỏ neo to đuềnh đoàng này về để làm… vật trang trí ở quán ăn, như là một chiêu PR hoàn hảo để khách một lần vào sẽ không thể quên được… nhà hàng mỏ neo. Thế là ông Địch “rước” khúc củi mục kềnh càng ấy về, đặt ở giữa quán bia mà vợ chồng, con cái ông đang mưu sinh, bất chấp bà vợ nghiến răng nghiến lợi vì kiểu… đầu tư không giống ai của ông chồng… trái khoáy.

Những chuyên gia Tây đã sang tận nhà ông Địch để giám định niên đại hai chiếc mỏ neo này

Tưởng như vậy đã xong, thì cuối năm 1999, một thanh niên lạ mặt tìm đến quán bia của ông Địch. Anh này “biết tiếng” ông Địch đã bỏ hẳn một cục tiền để rước “khúc củi” hai ngạnh kia về. Và, anh này cũng vừa vớt được một cái mỏ neo bằng gỗ, hình dáng còn kỳ lạ hơn, đấy là chỉ có một ngạnh.

Mọi chuyện lúc đó, chỉ khổ mỗi… vợ ông Địch. Đợi vợ ra khỏi nhà, ông Địch “mở trộm” két, lấy tiền trao cho anh thanh niên kia để “khênh” nốt chiếc mỏ neo một ngạnh. Gần chục năm trôi qua, hai chiếc mỏ neo kềnh càng này đã trở thành thành viên trong gia đình ông Địch.

Chuyên gia Tây vào cuộc

Năm 2002, một ông khách du lịch người Trung Quốc đến quá bia của ông Địch. Sau một hồi nhìn ngắm, ông khách này nhờ cô hướng dẫn viên phiên dịch giúp, ngỏ ý muốn mua lại một chiếc mỏ neo hai ngạnh với giá… 30.000 USD. Ông Địch chỉ cười, vì ngỡ rằng ông khách Trung Hoa nói đùa.

Vì nhà chật chội, và hai chiếc mỏ neo quá lớn, ông Địch phải "ghé" nó sát mé tường - Ảnh: Kiên Trung

Nhìn vẻ mặt của ông Địch, ông khách du lịch lại nghĩ mức tiền mà ông này ngỏ ra chưa hợp lý. Sau mấy ngày vào Sài Gòn theo tour, ông này quay trở lại, và quyết định nâng giá lên gấp… năm lần: 150.000USD. Bây giờ thì đến lượt ông Địch giật mình. Ông giật mình không phải vì khoản tiền khổng lồ mà ông khách lạ bỏ ra để mua lại “khúc gỗ”, mà trước đấy, ông nghĩ trên thế gian này chỉ có mình ông là người “rồ dại”. Sau đấy nghĩ lại, ông mới lờ mờ suy đoán, hẳn chắc chắn đấy là một cổ vật có giá trị lịch sử rất lớn, chứ không chỉ đơn thuần là một vật vô tri bấy lâu nay trầm tích dưới sông Hồng, được người ta tình cờ phát hiện.

Về nhà, ông Địch bắt đầu nhìn hai “hiện vật” của mình bằng một “con mắt” khác. Ông chụp ảnh và lần “mò” lên Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tìm gạp ông Dương Trung Quốc, vì “nghe nói ông Quốc là người rành lịch sử”. Ông Quốc đi vắng, ông Địch viết một bức thư tay, đại ý muốn mời ông Quốc đến tận nhà xem hai cái mỏ neo của mình, và lý giải giúp ông vì sao mà hai “khúc củi” ấy lại được người ta bỏ cả bạc tỷ ra mua lại.

Ông Mười - người trục vớt chiếc mỏ neo hai ngạnh - Ảnh: Kiên Trung

Hai hôm sau, nhà sử học Dương Trung Quốc đến nhà ông Địch theo địa chỉ trong bức thư, nhưng không phải đến một mình. Ông Quốc rủ thêm một chuyên gia khảo cổ học, tiến sỹ Vũ Thế Long. Cả ông Quốc và ông Long sửng sốt trước hai chiếc mỏ neo kỳ lạ này. Lời hứa của ông Quốc và ông Long đã dẫn tới câu chuyện các chuyên gia, giáo sư đầu ngành… của những nước có ngành hàng hải phát triển đến tận nơi tìm hiểu nghiên cứu về chiếc mỏ neo cổ của ông Địch.

Đoàn chuyên gia gồm có hai người Nhật, Randall Sasaki và Jun Kimura; hai chuyên gia người Úc, hai chuyên gia – giáo sư người Mỹ và Pháp. Đây là những chuyên gia hiện đang làm việc ở các Viện nghiên cứu về sự phát triển của ngành hàng hải dựa trên các xác tàu đắm được trục vớt.

Tiến sỹ Vũ Thế Long là người "móc nối" với những chuyên gia nghiên cứu lịch sử hàng hải đến Việt Nam để làm "chuyên án mỏ neo cổ" - Ảnh nhân vật cung cấp.

Theo kết quả giám định của Viện giám định Vật lý, chiếc mỏ neo một ngạnh có tuổi đời từ khoảng thế kỷ 13. Còn chiếc mỏ neo thứ hai, hai ngạnh có niên đại khoảng thế kỷ 15. Hai chiếc mỏ neo này đều có nguồn gốc từ những loại gỗ tốt, họ cây bồ kết, và là một phần của những chiếc tàu lớn, chưa xác định cụ thể là tàu buôn hay tàu chiến, và thuộc các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Ông Mười bên chiếc thuyền tham gia trục vớt chiếc mỏ neo. - Ảnh: K.Trung

Nghe được những thông tin chính xác từ các chuyên gia hàng đầu này, ông Địch là người hạnh phúc nhất. Ông ngỡ ngàng hiểu ra, bấy lâu nay ông đang sở hữu những cổ vật độc nhất vô nhị, nó là minh chứng cho cả một giai đoạn lịch sử quan trọng cho thấy sự phát triển của ngành hàng hải Việt Nam, hay chí ít cũng là nhân chứng của một thời kỳ kinh tế giao thương phát triển của thời kỳ phong kiến.

Randall Sasaki cho hay: “Tôi đã xem rất kỹ hai chiếc mỏ neo được chụp ảnh và gửi qua đường email, nhưng chưa chắc chắn đó là mỏ neo thuộc triều đại Nguyên Mông. Tôi đã nghiên cứu rất kỹ về triều đại Nguyên Mông, và trận Bạch Đằng thực sự là một trận đánh lịch sử. Tôi cho rằng đây là cơ hội tốt để đến Việt Nam tìm hiểu kỹ hơn về trận Bạch Đằng”.

Sang Việt Nam, Randall Sasaki đã lấy các mẫu dăm gỗ cạy ra từ hai chiếc mỏ neo này để về Nhật giám định, nghiên cứu niên đại xem có trùng với niên đại của chiếc mỏ neo phát hiện ở Nhật không. Nhưng khác biệt lớn nhất về nguyên liệu là đầu chiếc mỏ neo phát hiện ở Takashima (Nhật Bản) được bao bằng đá buộc vào, còn đầu hai chiếc mỏ neo ở đây được bọc sắt.

“Nhóm chúng tôi sẽ cố gắng hỗ trợ phía Việt Nam về phương pháp nghiên cứu và thậm chí cả việc kêu gọi tài trợ để lập quỹ hỗ trợ nghiên cứu”, Randall Sasaki, nghiên cứu sinh tiến sĩ của INA khẳng định. Còn Jun Kimura, nghiên cứu sinh tiến sĩ của Flinder University nhận xét: “Qua so sánh với những mỏ neo gỗ trục vớt được ở Nhật năm 1994 (đã được xác định có từ thời Nguyên Mông, thế kỷ thứ 13), cảm giác của tôi là có vẻ như hai chiếc này ra đời muộn hơn”.