Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2009

CAPT PHAN HẢI -NHÀ TỪ THIỆN

Chúng ta biết tới Phan Hải như một thuyền viên xông xáo,biết Phan Hải như một nhà đầu tư địa ốc sớm nhất trong số anh em đi biển .Hôm nay chúng ta biết tới nhà từ thiện Phan Hải qua bài viết của Lam Giang trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật:

Thứ Hai, 29/09/2008, 14:12 (GMT+7)
Ngôi trường của ông Hải


Ông Phan Hải
TTCT - Ngày 2-9-2008, Trường tiểu học Hải Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình) được đưa vào sử dụng cho năm học mới. Ngôi trường trị giá đến 4 tỉ đồng này trông rất lạ mắt so với hàng trăm ngôi trường khác trong tỉnh.
Đập vào mắt mọi người là một trụ cổng mang hình những que kem xếp liền nhau, được sơn nhiều màu khác nhau. Ngày đầu đến trường mới, bọn trẻ nhìn sửng sốt những trụ cổng que kem ấy và cười tít mắt.
Ông Hải lý giải: “Chắc chắn bọn trẻ không thích những trụ cổng mang hình khối vuông vức, đơn điệu. Vì vậy tôi và các bạn bè làm nghề thiết kế đã nghĩ ra kiểu trụ cổng như vậy vì rõ ràng cây kem là cái bọn trẻ thích nhất. Vậy sao không làm trụ cổng là những que kem, để mỗi khi tới trường bọn trẻ nhìn thấy sự vui vẻ và yêu thêm mái trường thân thương của mình?”.
Những mái trường lòng tốt
Trường tiểu học mới của xã Hải Trạch được thiết kế theo kiểu kiến trúc cổ của Pháp, nổi bật lên bên dòng sông Lý Hòa. Ông Hải vui vẻ dẫn chúng tôi tham quan trường. Quả thật chúng tôi rất thích kiểu xây trường học mới mẻ như thế này: hai bên dãy lớp học đều có hành lang thoáng đãng cho các em đi lại, các cửa trổ ở hành lang đều hình mái vòm nên không khô cứng chút nào.
Trong lớp học, mỗi học sinh có một bộ bàn ghế riêng theo kiểu mẫu của trường tiểu học bên Úc, trần phòng học đều lắp quạt xoay đủ mát cho từ đầu đến cuối lớp, dưới bàn học là ngăn đựng vật dụng, nên học sinh không phải mang những thứ không cần thiết về nhà sau mỗi buổi học... Tất cả đều mới tinh và... đẹp. Ông Hải cho biết tất cả bàn ghế, bảng đen và vật dụng phục vụ học sinh ở trường đều được ông cho chở từ TP.HCM ra, thuê luôn thợ Sài Gòn ra lắp đặt cả tháng trời mới xong gần 400 bộ bàn ghế (mỗi bộ có giá trên triệu đồng) cho trường kịp vào năm học mới.


Trường tiểu học Hải Trạch với chiếc cổng là những que kem
Trước khi quyết định đầu tư xây tặng trường tiểu học này cho xã, một năm trước đó ông lang thang khắp các trường học ở TP.HCM tìm mẫu. Rồi ông “chắp vá” mẫu này với mẫu kia thành ý tưởng, rồi nhờ người thiết kế theo mẫu mà ông ưng ý nhất để đưa ra cho UBND xã Hải Trạch duyệt. Anh Nguyễn Hạnh, một phụ huynh ở xã, không giấu được niềm vui, nói: “Kiểu trường của ông Hải làm rất khác lạ, nên phụ huynh và tất cả học sinh đều thích thú khi thấy nó”.
Ông Hải bảo: “Trường làm ra cho bọn trẻ phải thật đẹp chúng mới thích. Nhưng trường ở quê ta chỉ đẹp thôi thì chưa đủ, mà phải thật vững chắc mới được”. Hỏi vì sao, ông trầm tư nghĩ ngợi một lúc rồi nói: “Tôi quá hiểu quê hương mình là vùng thường xuyên phải đối mặt với gió bão, lũ lụt hằng năm, nên đã cho thiết kế các ngôi trường có nền móng rất vững để chịu được động đất đến 5-6 độ Richter và chịu bão đến cấp 12, 13. Mỗi khi có lũ lụt lớn như nhiều năm về trước, các trường học đều có thể làm nơi trú ẩn cho bà con ta”. Xã Hải Trạch nằm sát con sông Lý Hòa. Mùa mưa bão, nước luôn gầm xoáy ngay dưới chân làng. Cửa biển lại chỉ cách làng vài trăm mét.
Bên cạnh Trường tiểu học Hải Trạch là Trường trung học cơ sở Hải Trạch. Ngôi trường hai tầng này rất khang trang và cũng là “trường ông Hải”. Hai năm trước, vợ chồng ông đã bỏ ra 3 tỉ đồng giúp xã xây lên ngôi trường này cho con em học tập.
Bà Phạm Thị Điệp, hiệu phó nhà trường, kể: “Trường cũ là nhà cấp bốn, đã xây cách đây 30 năm. Lâu quá rồi nên đến mùa mưa là dột tứ tung cả. Nhiều phòng học sắp sập nên cả giáo viên và phụ huynh ai cũng lo lắng. Có bác Hải giúp xây cho ngôi trường mới này, từ năm ngoái đến ni không còn ai lo chi mưa gió nữa. Học sinh của trường cũng không còn phải học ca ba, ca tư”. Ông Hải thì bảo: “Trường học là bộ mặt của làng, của xã. Con em sau này có đi ra bên ngoài nở mặt nở mày với người ta cũng là từ trường học mà nên”. Với suy nghĩ đó, ông đã đầu tư trường học cho xã Hải Trạch bằng tất cả tấm lòng của mình.
Ông Hồ Thăng Long, chủ tịch UBND xã Hải Trạch, thổ lộ: “Có ông Hải giúp đỡ, xã chúng tôi bớt đi được bao nhiêu nỗi lo về đầu tư cơ sở vật chất cho sự nghiệp phát triển giáo dục của địa phương”.
Đi ra từ quê nghèo


Học sinh Trường trung học cơ sở Hải Trạch luôn vây quanh ông Hải mỗi khi ông đến thăm trường
Ông Phan Hải năm nay 65 tuổi. Quê ông ở làng Lý Hòa, xã Hải Trạch này. Làng quê đã nuôi lớn ông bằng những củ sắn, củ khoai của mảnh đất nghèo khó, khô cằn. Ông học xong phổ thông bằng những bước chân đi bộ từ làng Lý Hòa ra tận thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch. Rồi ông được cử đi học trung cấp hàng hải.
Ra trường, năm 1965 ông may mắn được làm việc trên một con tàu lớn và theo các chuyến tàu viễn dương trên biển. Cả miền Bắc lúc đó chỉ có hai con tàu chở hàng hóa từ Hải Phòng đi nước ngoài là tàu Hữu Nghị và Hòa Bình. Sau đó ông được điều sang tàu Việt - Ba (VN - Ba Lan) có trọng tải đến 4.500 tấn. Từ năm 1968 đến 1972 ông học đại học hàng hải tại Ba Lan để về làm giáo viên ở một trường hàng hải. Sau đó ông đi tàu Giải Phóng chạy tuyến Hải Phòng - Trung Quốc chở gạo từ Trung Quốc về tiếp tế cho miền Nam đánh Mỹ. Chiến tranh kết thúc, ông được phân công về tàu Cửu Long 1 (Công ty Vận tải biển VN - Vosco) tiếp tục đi viễn dương, rồi lên chức thuyền phó. Đến năm 1994 ông nghỉ hưu và sống ở TP.HCM.
Ông tâm sự: “Nhiều lần về thăm quê hương, tôi thấy đã 30 năm qua mà mái trường ngày xưa vẫn không có thay đổi gì cả. Tôi thấy tủi quá, vì vậy mới nảy ra ý định xin xã được đầu tư tiền xây lại các trường học cho con cháu”. Và ông đã bỏ tiền cho Hải Trạch xây trường. Không chỉ có hai trường học trên, mấy năm qua ông còn tặng xã thêm các công trình khác cũng trị giá tiền tỉ: trạm y tế 1,5 tỉ đồng, khu tượng đài tưởng niệm liệt sĩ và các anh hùng của dân tộc (đang xây) dự kiến từ 2,5-3 tỉ đồng.
Trong khu tượng đài này sẽ có một nhà bảo tàng trưng bày hiện vật lịch sử của quê hương, mà theo ông, sẽ góp phần giáo dục con cháu truyền thống cách mạng và uống nước nhớ nguồn. Cách đây vài năm, ông Hải đã xây tặng xã một hệ thống đường điện chiếu sáng với 35 bóng đèn cao áp trị giá trên 180 triệu đồng. Nhờ đó bộ mặt của Hải Trạch thay đổi hẳn, bớt đi bao tệ nạn trong đêm tối ở một vùng sát quốc lộ 1A. Ông còn có ý định cùng xã Hải Trạch xây lại một ngôi chùa trị giá khoảng 5 tỉ đồng...
Nhiều người đã tò mò hỏi: sao ông có nhiều tiền vậy? Ông thẳng thắn cho hay: “Ngày trước đất nước mình còn nghèo khó quá, cái chi cũng thiếu. Tụi tôi được đi tàu viễn dương nên có điều kiện mua hàng lặt vặt ở các nước đem về nước bán lại kiếm lời”. Từ buôn bán “lặt vặt” ấy, ông tích lũy được vốn và năm 1988 ông mua một căn biệt thự tại TP.HCM. Sau sửa chữa lại, ông cho người nước ngoài thuê với giá 18.000 USD/tháng, lấy tiền trước trong... hai năm. Ông còn có một căn nhà khác trị giá mấy ngàn lượng vàng mà ông mới bán để lấy vốn làm ăn.
Ông Phan Hải thổ lộ: “Tôi may mắn hơn nhiều người là được đi học thành người. Ngày đó đi học chúng tôi được Nhà nước và nhân dân cho không mọi thứ. Có được như hôm nay thì cũng phải nhớ lại công lao của quê hương, đất nước mà góp một phần nhỏ...”.
Không chỉ có “nhớ lại với quê hương” mình, ông Phan Hải còn đang nuôi những ý tưởng thiện nguyện cho những vùng quê khác. Mà ở đó, ông cho biết là nếu đã làm thì phải làm cho nên tấm nên miếng bằng những đồng tiền của gia đình ông. Bởi ông biết ngoài xã Hải Trạch, quê hương Quảng Bình của ông vẫn còn nhiều làng quê khác rất nghèo đang cần giúp đỡ.
LAM GIANG

HỌP MẶT LẦN THỨ BA ĐỘI TÀU GIẢI PHÓNG-TỰ LỰC-QUYẾT THẮNG



Trưa ngày thứ bảy 25/07/2009 tại Công Viên Văn Thánh Sài Gòn ,những cựu thuyền viên đội tàu Giải Phóng,Tự Lực,Quyết Thắng đã họp mặt lần thứ ba.thay mặt anh em,thuyền trưởng Nguyễn Ngọc Tuyền đã đọc bài viết nhắc lại truyền thống

Nguyễn Ngọc Tuyền thay mặt anh em đọc lời kêu gọi như sau:
BAN LIÊN LẠC THUYỀN VIÊN
ĐỘI TÀU GIẢI PHÓNG, TỰ LỰC, QUYẾT THẮNG

Kính gửi: Những người hảo tâm, quý cơ quan

Ba đội tàu Giải Phóng, Tự Lực, Quyết Thắng được thành lập trong bối cảnh miền Bắc nước ta đang bị máy bay Mỹ đánh phá ác liệt. Dưới sự chỉ đạo của Cục Vận tải đường biển, tháng 6-1966, đội tàu Quyết Thắng ra đời, để thay thế các phương tiện vận tải đường sông, vận tải xăng dầu đã bị thiệt hại gần hết, không còn khả năng tiếp tục.
Tháng 8-1966, thành lập đội tàu Tự Lực thay thế cho những con tàu có trọng tải lớn (không thể phơi mình lộ liễu trên mặt biển trước sự bắn phá của máy bay Mỹ, biệt kích Ngụy). Những con tàu vỏ sắt Tự Lực chở từ 20 đến 50 tấn luồn lách qua những dòng sông miền Bắc, thoát ra cửa Lạch Giang, Lạch Trào chạy ven theo bờ biển, lao sâu vào tuyến lửa... Vừa thực hiện nhiệm vụ chuyên chở, vừa chuyển tải hàng từ các tàu ngoại (neo đậu ở Hòn Ngư, Hòn Na...) vào bờ.
Đầu năm 1967, thành lập đội tàu Giải Phóng. Loại tàu do Trung Quốc viện trợ, trọng tải 100 tấn, công suất 900HP, tốc độ 14 hải lý. Về hình dạng, vũ khí trang bị, kể cả màu sơn, tàu Giải Phóng giống hệt tàu vận tải quân sự. Nhiệm vụ chiến lược của đội tàu này là: lợi dụng những ngày ngừng bắn của tết âm, dương lịch, ồ ạt ra quân đưa thật nhanh, thật nhiều hàng hóa vào Khu 4. Khi cảng Hải Phòng bị phong tỏa thủy lôi, tàu Giải Phóng cũng là con tàu đầu tiên vượt qua thủy lôi, phá vỡ thế phong tỏa, khai thông tuyến luồng Đông Bắc. Từ tuyến luồng này, đêm đêm hàng chục chiếc tàu đua nhau chở hàng từ miền Nam Trung Quốc về cảng Hải Phòng.
Trên lĩnh vực vận tải, vận tải biển trong chiến tranh là cam go và nguy hiểm nhất. Tàu nhỏ gặp sóng to gió lớn, thui chột ý chí... Máy bay pháo kích, thần chết luôn lơ lửng trên đầu. Căng thẳng đâu chỉ một vài giờ mà cả ngày lẫn đêm. Biển cả mênh mông đâu có chỗ để ẩn nấp?! Máu của hàng loạt đồng nghiệp chúng tôi đã hòa vào nước biển xanh mặn chát. Những xác tàu trơ khung sườn nằm rải rác trên các triền sông, cửa biển từ Bắc vào Nam. Tàu VS10 bị máy bay đuổi bắn chết cả tàu. Tàu TN02 hoàn thành nhiệm vụ trên đường thắng lợi trở về bị bắn chìm, thuyền trưởng, thủy thủ lái hy sinh anh dũng. Tàu GP28 chia lửa cùng quân dân Hải Phòng bị trúng rocket, biên chế 11 người chết 7... Ngay đêm đầu tiên nhận 2 tàu Giải Phóng ở ngoài khơi đảo Thượng Mai, Hạ Mai (Quảng Ninh) bị máy bay Mỹ phát hiện bắn chìm tại chỗ 2 chiếc, chỉ còn một tàu đưa đón, mang đầy thương tích chạy thoát... Thật khâm phục những chiến sĩ xăng dầu, đội tàu Quyết Thắng - bom đạn địch, hàng cháy nổ đe dọa từng phút từng giây sao các anh không sợ? Điều gì kích thích lòng dũng cảm mà các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng! Những chiến công đã biết, những chiến tích chưa hay, tất cả tạo thành một bản hùng ca làm rạng danh ngành vận tải biển Việt Nam.
Những thuyền viên của 3 đội tàu những ngày chinh chiến hồi ấy còn rất trẻ, phần lớn đều là học sinh, sinh viên của Trường Trung cấp, Trường Đại học Hàng Hải, qua môi trường thử thách khắc nghiệt, họ đã trưởng thành, đây là nguồn nhân lực nòng cốt, cung cấp cho những con tàu viễn dương sau này. Trước đặc thù của vận hội mới, đầu năm 1973, ba đội tàu bị giải thể, thuyền viên được điều về các công ty vận tải địa phương, đa số còn lại được bổ sung vào đội tàu lớn của trung ương (VOSCO, VITRANSCHART, VINASHIP).
Từ ngày hòa bình lập lại đến nay, các cán bộ cấp trên bận trăm công ngàn việc, chẳng ai khi nào tạo điều kiện để chúng tôi có dịp đông đủ gặp nhau. Ở cái tuổi đã về hưu hoặc sắp sửa về hưu, chúng tôi thấy có phận sự phải thực hiện nguyện vọng bấy lâu nay của thuyền viên ba đội tàu. Một năm trời có một hai lần gặp mặt nhau nhằm:
1. Tăng cường đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, nêu cao khí phách hào hùng năm xưa, sống vui sống khỏe, sống có ích cho xã hội.
2. Sưu tầm lại những gương dũng cảm hy sinh của từng con tàu, con người cụ thể từ các nhân chứng còn sống, thu thập làm cứ liệu truyền thống cho ngành vận tải biển Việt Nam.
Để thực hiện hai nhiệm vụ trên, chúng tôi - Ban Liên lạc thuyền viên ba đội tàu Giải Phóng, Tự Lực, Quyết Thắng - đã ra đời, rất cần sự góp tâm, góp sức của các hội viên, sự hảo tâm của những người tài trợ, cũng kính mong:
- Quý ngành vận tải đường biển
- Quý ngành vận tải đường sông
- Quý ngành vận tải xăng dầu
Chúng tôi là những người (cổ lai hy) của quý ngành, không hề kể công, bởi tuổi trẻ vào cái thời chinh chiến ấy, ai cũng phải suy nghĩ và hành động như chúng tôi; chỉ đáng buồn là chúng tôi thân phận ở dưới nước, còn các vị lãnh đạo hồi ấy ở trên bờ, lại ở trên cao (Cục, Bộ) nên từ ngày giải thể đến nay đã quên mất chúng tôi. Xin các quý vị cùng nghề nghề nghiệp thể hiện một chút lương tâm và trách nhiệm.

TP.Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 6 năm 2009
Thay mặt Ban Liên lạc thuyền viên
đội tàu Giải Phóng, Tự Lực, Quyết Thắng
TRƯỞNG BAN
Thuyền trưởng: Nguyễn Ngọc Tuyền


Trong "Bách Khoa Hàng Hải và Đóng Tàu",Giải Phóng hiện mới được viết đơn giản như sau :
Giải Phóng- tàu hàng LxBxHxT=37,4x6,20x2,8x1,90mét,máy chính 12MGV18X ,một chiếc,công suất 900cv Đóng tại nhà máy Đóng Tàu Quảng Châu với số lượng 39 chiếc và cuối cùng 32 chiếc đã được đưa vào sừ dụng.


Danh sách các thuyền trưởng đội tàu Giải Phóng
1 Nguyễn Bình An 22 Phạm Ngọc Quý
2 Nguyễn Bá 23 Đặng Ngọc Quý
3 Nguyễn Văn Chánh 24 Phạm Bá Tâm
4 Hà Minh Châu 25 Đinh Văn Tín
5 Hàn Dũng 26 Phạm Bá Tùng
6 Lê Đình Đỉnh 27 Trần Tài Thế
7 Đoàn Tiến Đức 28 Huỳnh Thinh
8 Nguyễn Duy Hồ 29 Nguyễn Hữu Thức
9 Trương Minh Hoàng 30 Nguyễn Văn Thức
10 Đặng Văn Khanh 31 Thiềm Chí Trung
11 Đỗ Hồng Khôi 32 Nguyễn Mạnh Trinh
12 Đào Quang Khoát 33 Nguyễn Ngọc Tuyền
13 Nguyễn Văn Lễ 34 Nguyễn Đình Chiểu
14 Đoàn Đình Long 35 Hà Nhật Tăng
15 Phạm Đình Long 36 Nhữ Cao Tài
16 Đỗ Xuân Mùi 37 Nguyễn Văn Tòng
17 Đăng Ngọc Miên 38 Bùi Hữu Túc
18 Phạm Ngọ 39 Đặng Văn Nam
19 Vương Tiến Ngọ 40 Đặng Văn Hải
20 Võ Ngọc 41 Nguyễn Hữu Cử
21 Phan Ngoan 42 Nguyễn Văn Chiêu
43 Hồ Bàng Quyên

Nguyễn Như Kim -vị khách đặc biệt của tàu Sông Lô


Năm nay ,kỷ niệm tròn 60 năm sự kiện tàu Sông Lô .Trong số những nhân vật còn lại ,thuyền trưởng Nguyễn Văn Hóa ,thợ máy Trần Hữu Thức còn sống tại Sài Gòn.Nhiều nhân vật khác đã qua đời,trong đó có một vị khách đặc biệt của tàu -kỹ sư Nguyễn như Kim-vừa mất năm ngoái.Thât đáng tiếc không làm công tác tư liệu ghi chép với vị Viện Trưởng phụ trách Trung Tâm Thông Tin KHKT này.Xin chép lại tại đây,bài viết trên tờ Công An Nhân Dân về Nguyễn Như Kim

Vào hồi 10h30' ngày 8/10/08 vừa qua, Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng đã tổ chức tiễn đưa ông Nguyễn Như Kim, nguyên Viện trưởng Trung tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia, về nơi yên nghỉ cuối cùng.
Ngay cả những người thân đến viếng ông không phải ai cũng biết sự kiện hy hữu này mà ông là người thực hiện đúng 60 năm về trước: Nhận 18 ki-lô vàng, buộc trên đèo hàng, đạp xe xuyên qua vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, vào xứ Nghệ, sang Lào, qua Thái Lan, hàng năm trời tổ chức mua sắm thiết bị cho Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, máy thu phát quân sự, các loại thuốc men, dụng cụ y tế, sách cho bậc đại học...
Tôi được biết Nguyễn Như Kim từ ngày anh mới 23 tuổi, gương mặt kiên nghị như tạc bằng đá, tú tài toàn phần, chỉ năm sau là anh tốt nghiệp cử nhân Khoa Vật lý đại cương. Anh là Đoàn trưởng Đoàn Hướng đạo Thăng Long mà tôi chỉ là một chú nhóc xấp xỉ tuổi 12 trong đoàn. Đó là năm lịch sử sang trang: Cách mạng Tháng Tám 1945, và anh là một trong những người tổ chức treo cờ đỏ sao vàng cỡ lớn ở mặt tiền và mặt đối diện Nhà hát Lớn Hà Nội (xem thêm Những ngày không thể nào quên, Công an nhân dân cuối tuần, số 31, 17/8/2008)…
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã tung chúng tôi đi bốn phương, mỗi người đi con đường "số phận" của mình, rồi nối tiếp cả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước… Khi anh em Đoàn Hướng đạo Thăng Long liên lạc được với nhau, tổ chức gặp mặt nhau thì sắc trắng trên đầu chúng tôi đã nhiều hơn màu đen, và màu đen cũng dần ngả sang tiêu muối. Buổi gặp đầu, mỗi người chỉ được kể tóm tắt về mình trong dăm phút…
Dăm phút tóm tắt nửa thế kỷ truân chuyên của mỗi người! Thật là một cuộc "trói voi bỏ rọ"! Nhưng qua đó, chúng tôi cũng hiểu sơ sơ về nhau, để từ đó thăm hỏi kỹ hơn những lần gặp lại sau. Chỉ có câu chuyện của anh Kim là chứa chất nhiều ẩn số, máu viết văn lại hay tò mò muốn biết những chuyện lạ, tôi đề nghị anh Kim bố trí giờ cho tôi gặp để nghe kỹ chuyện đời của anh, đặc biệt là chuyến đi xuyên bán đảo Đông Dương năm ấy…
Bên cửa sổ phòng làm việc của anh tại Trung tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia, năm 1995, dẫu đã 72 tuổi, anh vẫn làm cố vấn cho Trung tâm này, anh Kim dõi nhìn những tán phượng lớn ngoài cửa sổ đường Lý Thường Kiệt. Hình như những kỷ niệm cũng đang chập chờn đâu đó qua bóng nắng chiều rọi trên tầng lá…


Các thành viên của Đoàn Hướng đạo Thăng Long gặp lại nhau sau nửa thế kỷ xa cách (ông Nguyễn Như Kim đứng giữa).
"…Tình hình mấy ngày trước kháng chiến toàn quốc thật khẩn trương, anh ăn nghỉ ngay tại cơ quan Đài Phát thanh Bạch Mai (lúc này anh là Phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật). Ngày 17/12/1946, nghe tin tụi Pháp đánh vào phố Hàng Bún, gần khu nhà anh ở, anh phóng vội xe về nhà thì cửa ngõ tan hoang cả. Hàng xóm cho biết gia đình anh đã tản cư về Hoài Đức. Thôi thế là yên một bề!
Đến ngày 19/12/1946 thì bọn anh đã chuẩn bị xong cơ sở phát thanh ở chùa Trầm. Khoảng 8h tối, Đài Bạch Mai làm nốt nhiệm vụ cuối cùng của nó là phát đi bản hiệu triệu toàn quốc kháng chiến. Bọn anh lên chuyến xe sau cùng, nhìn lại lần cuối 4 cột ăng-ten lớn thân thiết với mình lâu nay. Chỉ mươi phút nữa, nhóm công nhân còn lại sẽ cho nổ tung lên! Bọn Pháp có phục hồi được cũng còn mệt! Đại bác ở pháo đài Láng lên tiếng, thế là bọn anh đã rời xa Hà nội, về chùa Trầm. (Bác Hồ cũng ghé thăm anh em Đài Phát thanh ở chùa Trầm trước khi Bác lên Việt Bắc).
Tôi thả dòng tưởng tượng theo lời kể của anh Nguyễn Như Kim.
Hóa ra những ngày kháng chiến ta không chỉ có một cơ sở phát thanh. Đài đang phát ở chùa Trầm, các anh đã chuẩn bị trước một địa điểm khác. Anh Kim chuyên trách về xây dựng cơ sở mới. Cách dốc Cun vài chục cây số đã hình thành một “Đài phát thanh nhẹ”. Đó là kết quả những đêm di chuyển những cỗ máy diezel khổng lồ qua dốc Cun, riêng cái bệ máy cũng phải hàng chục người khiêng leo dốc. Có đêm khiêng máy gặp hổ, nhìn thấy đôi mắt hổ bắt ánh đèn trên một khóm lau trên sườn núi…
Rồi lại có lệnh rút về Phú Thọ, rồi Tuyên Quang… Có lần anh Kim đang ngồi trên một chiếc xe đầu rụt chở máy thì bị máy bay Pháp đuổi bắn, xe hỏng hai lốp sau, may là người và máy không trúng đạn.
Tháng 1/1947, Nguyễn Như Kim được kết nạp Đảng do hai nhà biên tập Đài là Trần Lâm và Hoàng Tuấn giới thiệu.
Khi Nguyễn Như Kim phụ trách Đài ở Bắc Cạn thì một Đài phát thanh khác quy mô lớn hơn lại lắp đặt ở hồ Ba Bể. Pháp nhảy dù Bắc Cạn, lại chạy, lại cất giấu máy, làm lán trong rừng. Đơn vị anh còn muối, lại phải giết thịt một con ngựa vì gạo cũng không còn. May gặp bác sĩ Từ Giấy (Báo Vui Sống), bác sĩ đề nghị đổi gạo lấy muối và thịt. Còn rau tàu bay thì bên nào kiếm được nhiều lại san sẻ cho cơ quan bạn.
Những bộ phận máy của một Đài phát thanh sản xuất ra là để định vị ở một đô thị. Thế mà ở đây, chúng cứ lang thang đồi núi, sình lầy, lắp chưa yên chỗ lại phải tháo ra, di chuyển. Con người còn chịu được, những khối sắt thép thì tránh sao khỏi han gỉ, hỏng hóc!
Những cán bộ có trách nhiệm ở Bộ Quốc phòng thấy ngay phải tính trước điều này.
Giữa tháng 6/1948, Nguyễn Như Kim được gọi về Chợ Chu (Thái Nguyên), người đại diện Bộ Quốc phòng giao cho anh nhiệm vụ (phần kỹ thuật của Đài phát thanh lúc này do Bộ Quốc phòng quản lý): Sang Thái Lan, liên hệ với cơ sở Việt kiều yêu nước bên đó mua những linh kiện vật tư cho Đài. Kèm theo là một danh mục yêu cầu mua một số lượng lớn máy thu phát quân sự cỡ 15 oát, rồi các loại thuốc men, dụng cụ y tế, các loại sách cho bậc đại học…
Anh biết mình sắp dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mới, nhưng mấy năm nay, anh đã quen với việc nhận một nhiệm vụ mà chưa thể hình dung nó sẽ được thực hiện bằng cách nào? Người đại diện Bộ giao cho anh giấy tờ cần thiết rồi sang buồng bên bê về một gói vuông bọc vải bạt, có vẻ khá nặng, đặt trước mặt anh: "Đây là số vàng cần thiết cho nhiệm vụ của anh!". Đôi mắt người trao nhiệm vụ long lanh một vẻ tin cậy trên gương mặt tái mét vì bệnh sốt rét.
Hồi đó, hình như người ta quý sự hoàn thành nhiệm vụ hơn vàng! Ở Nguyễn Như Kim phẩm chất ấy dường như còn mạnh hơn nhiều người. Bộ Quốc phòng chỉ cử thêm một người bảo vệ đi cùng anh. Hai anh em len lỏi qua những vùng xôi đỗ địch hậu Sơn Tây, Xuân Mai, rồi xuôi Cống Thần, Chợ Đại vào Thanh Hóa rồi vào đến Đô Lương. Đến đây, một mình anh sẽ nhập vào đoàn cán bộ qua Lào công tác.
Việc đầu tiên, anh tìm mua được chiếc xe đạp Stéclinh còn tốt, khá nhẹ và chắc. Lấy dây thép cột chặt gói vàng bọc vải bạt vào đèo hàng. Rồi hai anh em áo nâu, nón lá, cưỡi hai con "chiến mã" lên đường. Anh nhớ có một lần sang đò, ông lái đò nâng hộ anh cái đèo hàng, bỗng kêu toáng: "Chui cha! Anh buộc cái của khỉ gì vào xe mà nặng thế ni?". Cứ hở như vậy mà kín! Có ai ngờ một khối vàng lớn đến thế lại buộc lộ thiên như vậy!
Anh Kim là người nói tiếng Pháp như người Pháp, lại học trường của "mẫu quốc" Pháp, chẳng may anh có sa vào tay địch… Tôi không nén được một câu hỏi cứ từng lúc định bật ra: "Vậy có lúc nào anh nghĩ: Anh sẽ là chủ sở hữu số vàng đó?". Hỏi xong thì tai tôi đỏ lên như mình đã lỡ xúc phạm anh! Anh Kim nhăn mặt: "Không! Chả lúc nào anh nghĩ đến điều đó! Anh chỉ tính đoạn đường trước mặt, làm sao vào được Đô Lương an toàn!".
Đầu tháng 8/1948, hai anh mới tới Đô Lương, nhập với đoàn cán bộ sắp qua Lào. Nguyễn Như Kim còn nhớ trong đoàn có Bùi Văn Các, sau là Thứ trưởng Bộ Xây dựng. Một trung đội vũ trang đưa họ từ Đô Lương, Con Cuông qua Lào.
Cỏ lau lút đầu người, các anh phải nghĩ ra cách dùng tre làm những cái khung hình tam giác để rẽ cỏ gianh mà đi. Ngày nghỉ đêm đi. Chỉ nhìn thấy chiếc khăn mặt trắng trên ba lô người đi trước làm mốc, lúc nào cũng có cảm giác đói. Đặc biệt rất thèm của ngọt. Rồi họ đi thuyền độc mộc từ sông Nặm Ca Đinh ở Lào đổ ra sông Mê Kông. Vượt qua quãng nguy hiểm do đồn địch và xoáy nước lớn ở cửa sông Đac Ca Đinh thì đơn vị vũ trang trở về nước. Nhóm cán bộ xuống thuyền buôn, xuôi dòng Mê Kông về Na-Khon Pha-Nôm, nơi có tổ chức Việt kiều chờ đón.
Sau chuỗi ngày dài đói khát, gần như chỉ ăn gạo rang và nước sông, họ đến được sự đón tiếp nồng hậu của Việt kiều. Nguyễn Như Kim và Bùi Văn Các xả láng bồi dưỡng cháo gà và ca cao.
Rồi Nguyễn Như Kim tách ra với hành trình về Băng Cốc. Anh Nguyễn Đức Quỳ (sau là Thứ trưởng Bộ Văn hóa) đại diện tổ chức Việt kiều ở Thái Lan đón anh về sống ở một villa lớn. Lúc này Nguyễn Như Kim mới cất được gánh nặng: Khối vàng nộp cho tổ chức mà anh nhớ hình như khoảng chục ki-lô. Và anh bắt đầu công việc liên hệ, mua sắm, cần tiền đến đâu mới rút ra đến đó.
Có những loại đèn công suất đặc biệt của máy phát thanh phải đặt mua ở Mỹ, phải nhờ cánh phi công dân sự Thái Lan mua giúp.
Sau nhiều tháng chuẩn bị mua sắm đủ số hàng cần thiết, họ tính toán cách mang "hàng" về. Đường bộ không ổn với số lượng người phải mang vác đông đến thế. Một bộ phận máy thất lạc đủ tê liệt cả cỗ máy...
Họ mạo hiểm định thuê cả thuỷ phi cơ, nhưng cuối cùng chủ hãng thủy phi cơ sợ sẽ khuynh gia bại sản nếu việc bị đổ bể. Các phương án đường bộ, đường không lần lượt bị bác bỏ..

Phương án đi đường thủy được thực hiện. Hàng hải Nam Bộ thuộc khu 9 đã nhận được yêu cầu của tổ chức ở Thái Lan. Một đội thủy thủ được thành lập: Thuyền trưởng Hoá, hai thuyền phó Liêm và Nhã, Qua là Bí thư Chi bộ. Các anh chọn mua một con tàu. Nguyễn Như Kim rất nhớ vóc dáng con tàu vận mệnh ấy của anh: Nó dài khoảng 30 mét, ngang chừng 8 mét, trọng tải độ trăm tấn, được gắn thêm hai máy để tăng tốc độ. Đội thủy thủ khoảng hai chục người.
Đến khâu chuyển hàng, Kim mới thấy năng lực tổ chức của bà con Việt kiều. Suốt 2, 3 tháng, từng chiếc ghe chở những gói bọc của Kim giấu lẫn vào các hàng hóa khác, chuyển từ Băng Cốc ra cảng, đường dài 40 cây số, như đàn kiến tha mồi. Ra tới cảng, những gói bọc ấy lại chuyển lên một thuyền buồm. Thuyền đầy, lại rời bến chở hàng về một địa điểm an toàn ven biển, giáp Campuchia, rồi lại trở về cảng nhận chuyến khác.
Từ khi xác định tuyến đường biển, Kim mua hàng có thoải mái hơn, biết rõ nhà cần cái gì anh mua cái đó, anh mua cả máy quay phim cho các bạn điện ảnh.
Con tàu có tên Prasamud, biển đăng ký Thái Lan. Sau anh em đổi tên cho nó là tàu Sông Lô.
Đầu tháng 6/1949, mọi việc chuẩn bị mới hoàn hảo. Tàu Sông Lô với đội thủy thủ chở Nguyễn Như Kim, không chở hàng gì, nhẹ nhàng rời bến ở Băng Cốc, hướng ra cảng, rồi ra biển với lý do tàu mới mua chạy thử máy. Các anh vẫn phải che mắt tụi mật thám Pháp đang hoạt động ở Thái Lan.
Tàu đỗ ở ngoài đảo Cochang (Campuchia) ban đêm. Những thuyền con chở hàng từ kho ra, bốc lên tàu. Trong đó có một loại hàng đặc biệt: 20 phuy đầy xăng. Đây là quyết tâm của Nguyễn Như Kim và đoàn thủy thủ Nam Bộ: Nếu bị địch vây bắt, các anh sẽ đốt tầu với 20 phuy xăng này, không cho hàng lọt vào tay địch, giữ bí mật nhiệm vụ của chuyến đi.
Vậy là tàu Sông Lô đã qua vịnh Thái Lan, qua Hòn Khoai vào Năm Căn. Nếu tàu về tới Bến Thủy, Kim đưa hàng lên Việt Bắc là anh hoàn thành một chuyến đi vòng bán đảo Đông Dương.
Cánh hàng hải Nam Bộ toàn những dân lão luyện đi biển của cảng Sài Gòn, từ Năm Căn trở đi, họ thuộc biển nhà như trong lòng bàn tay. Tàu dừng ở sông Tam Giang chừng một tháng, đưa thêm gạo, thuốc men của Nam Bộ gửi về Việt Bắc. Máy móc được rà soát, bảo dưỡng thật chu đáo, chuẩn bị cho đoạn đường sinh tử. Tàu rời sông Tam Giang, vòng qua Côn Đảo, rồi hướng lên phía Bắc. Các anh cứ lợi dụng đêm tối, cố gắng đi xa bờ để tránh địch phát hiện. Một hôm, vào khoảng 3h chiều, thuyền trưởng Hóa chỉ vào hải đồ rồi hất đầu về bên trái tàu: "Đà Nẵng đó! Đêm nay ta sẽ vào bến Thủy. Khi nào qua Hòn Mê sẽ có tín hiệu ra đón tàu!".
Anh chưa nói dứt lời thì một chiếc máy bay lướt qua, bay khá cao. Một lúc sau, nó lại vòng qua rồi trở lại đất liền, anh em xôn xao: Hay nó phát hiện ra mình? Tại sao nó không bắn? Hay nó gọi tàu đón lõng để bắt mình?
Thuyền trưởng quyết định quặt về phía đảo Hải Nam, chưa vào Bến Thủy vội, tàu Sông Lô điện về cho Bộ Quốc phòng báo tin và xin lệnh. Độ một tuần sau biển hoàn toàn yên tĩnh, lại được lệnh của Bộ cho tàu về Bến Thủy. Sông Lô nhổ neo nhằm tọa độ Bến Thủy.
Tàu đi chưa được một tiếng đồng hồ. Thuyền trưởng Hóa nhìn qua viễn kính, bỗng kêu lên: Báo động! Có tàu địch! Nguyễn Như Kim đón lấy ống viễn kính. Anh thấy có đến bốn chấm đen đang to lên khá nhanh, lại từ bốn hướng lao tới, tỏ ra chúng đang phóng hết tốc độ và không ngoài ý định vây bắt tàu của các anh. Thuyền trưởng Hóa cho tầu quay lại, mở hết máy.
Nhưng đã quá chậm! Thuyền trưởng, Bí thư Chi bộ Qua triệu tập anh em thủy thủ lại bàn cách đối phó. Rõ ràng với sự dàn sẵn của tàu địch, tàu ta không thể thoát khỏi vòng vây. Chỉ còn cách thực hiện phương án cuối cùng. Hai mươi phuy xăng được đổ khắp tàu như một thùng thuốc súng chờ nổ. Anh em thủy thủ mỗi người chỉ mặc một chiếc quần xà lỏn.
Nguyễn Như Kim nhìn khắp con tàu: Công sức của anh và bao nhiêu người cả một năm trời chuẩn bị chỉ vài phút nữa là chả còn gì. Bất giác anh nhớ lại cảm giác lúc rời Hà Nội, nhìn 4 chiếc cột vô tuyến của Đài Bạch Mai sắp nổ tung. Anh thở dài, giơ chiếc máy quay phim lên, ném thẳng xuống làn nước xanh trong. Có điều lạ! Anh không thấy hoảng sợ trước những họng súng đang lao đến gần anh như bầy quái vật. Trước sự mất mát lớn hơn, bản thân anh như chẳng đáng kể gì.
Chợt nhoàng sáng, tàu lắc mạnh, anh và thuyền trưởng Hóa như một phản xạ bản năng, lăng mình từ đài chỉ huy xuống biển. Anh bỗng thấy buốt xót cả một vế đùi bên phải. Tàu Sông Lô bùng một khối lửa, vẫn lao đi. Bốn chiếc tàu Pháp bám theo nhưng không dám tới gần. Một vật gì như cái khung bằng gỗ bập bềnh bên cạnh, anh Kim bám ngay lấy. Hình như chiếc chuồng gia súc từ tầu băng ra. Anh còn nhìn rõ giữa đám thủy thủ đang bơi lóp ngóp, Bí thư Chi bộ Qua bị bỏng nặng, da lưng anh rộp phồng lên như lưng áo sơ mi dưới nắng chiều thiêu đốt. (Anh Đặng Văn Qua sau là Phó Cục trưởng Cục Đường biển)… Tàu Sông Lô chìm dần phía xa… Chúng bắt bọn anh lên tàu chiến. Điểm lại, chỉ có một thủy thủ chết. Phần lớn bị bỏng nặng.
Mặc dầu bị tách ra, tra tấn dã man, Kim chỉ khai tên Nguyễn Văn Hai đi buôn gạo. Sau hồ sơ mật thám ở Hà Nội cũng cho chúng biết anh là ai, từng tốt nghiệp Khoa Vật lý đại cương ở Hà Nội năm 1946. Anh đi tù một năm tại các trại tù binh Nam Bộ. Bọn Pháp thấy anh là một trí thức được đào tạo trước năm 1945 thời Pháp thuộc, nên đưa anh về Hà Nội, hứa sẽ thả anh, nếu anh nhận lời sang Pháp làm việc hoặc học tiếp. Nguyễn Như Kim tìm cách liên hệ với tổ chức, và "tương kế tựu kế", anh được nhận nhiệm vụ mới: Sang Pháp, trau dồi một kỹ năng chuyên môn, chờ lệnh.
Sang Pháp, anh học chuyên về điện tử. Ngày làm việc tự kiếm sống, tối học. Thông thường, sinh viên Pháp muốn tốt nghiệp kỹ sư công nghệ điện tử phải thi lần lượt 5, 6 chứng chỉ, mỗi chứng chỉ phải học một năm. Với vốn lý thuyết đã có, anh thi một năm hai chứng chỉ làm các giáo sư Pháp ngạc nhiên. Sau khi tốt nghiệp kỹ sư công nghệ điện tử, anh được mời làm trợ lý cho một giáo sư nổi tiếng, ăn lương chính thức của Bộ Giáo dục Pháp.
Khi Giáo sư Hồ Đắc Di sang Pháp, chuyển lời mời anh về nước của ông Tạ Quang Bửu, với mấy dòng, đại ý: "Trong nước vừa thành lập Trường Đại học Bách khoa, đang cần một giáo sư chủ nhiệm khoa như anh. Anh biết đó là lệnh mới của tổ chức. Lúc này anh đã có vợ và con. Chị là Tiến sỹ Sinh hóa Trần Thị Ân, con trai Nguyễn Mạnh Đức (hiện nay là Giáo sư, Tiến sỹ Vật lý, giảng dạy nghiên cứu tại Trường Đại học Oxford (ở Anh)).
Vợ chồng anh vui vẻ nhẹ nhàng rời bỏ mức sống trung lưu ở Paris về nước nhận công tác mới: Chủ nhiệm Khoa Điện - Điện tử Trường Đại học Bách khoa. Anh nói với tôi về chị: "Anh thật ngạc nhiên về sự thích ứng nhanh của chị với những vất vả ở Việt Nam, nhất là những năm chiến tranh. Từ bé, chị chưa hề bị vất vả. Thế mà nhiều hôm phải dậy từ 3h sáng xếp hàng đong gạo để còn kịp đi dạy ở Đại học Y khoa. Năm năm đầu chị già đi khá nhanh, nhưng không hề phàn nàn gì. Chị được bầu đại biểu Quốc hội tới 4 khóa liền".
Về nước được vài tháng, anh được phục hồi đảng tịch. Các đồng nghiệp của anh ngạc nhiên về sự đối xử của tổ chức với một Việt kiều mới về nước. Họ tưởng anh mới được kết nạp Đảng, không hề biết anh đã làm gì trước đó.
Sau khi rời trường, anh chuyển sang Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước rồi xây dựng ngành Thông tin khoa học. Gần 20 năm anh làm Viện trưởng Viện Thông tin khoa học Trung ương, xây dựng ngành này từ tay trắng đến lúc có cả một màng lưới thông tin khoa học quốc gia. Các bộ, các tỉnh đều có cơ sở làm việc hiệu quả, hợp tác rộng rãi với các ngành thông tin quốc tế, phục vụ thông tin cho lãnh đạo, cho sự phát triển kinh tế.
Đến tuổi 66, năm 1988 anh lại được cử sang làm tham tán khoa học kỹ thuật tại Đại sứ Việt Nam ở Pháp.
Hơn 5 năm làm việc tận tình ở nước ngoài, Nguyễn Như Kim đã góp phần quan trọng phát triển mối quan hệ hợp tác hai nước để Việt Nam tiếp nhận công nghệ tiên tiến thế giới. Rất nhiều các đoàn cán bộ khoa học hai nước qua lại, hợp tác thiết thực về mọi mặt: quản lý kinh tế, ngân hàng, tài chính, luật, viễn thông…, chuyển giao các tư liệu kỹ thuật phục vụ cho công cuộc đổi mới nền kinh tế trong nước.
Đặc biệt ở khâu đào tạo chuyên gia Việt Nam tại Pháp, thường xuyên có chừng 300 đến 350 nghiên cứu sinh, thực tập sinh công nghệ, bảo vệ luận án tiến sỹ học tập làm việc ở Pháp. Bằng mối quen biết rộng rãi với các nhà trí thức, giới chức Pháp, Nguyễn Như Kim đã tạo điều kiện thuận lợi cho hầu hết các nghiên cứu sinh, thực tập sinh Việt Nam ở Pháp. Có lẽ vì bản tính khiêm tốn ít nói về mình, cho nên mãi đến hôm ấy, năm ông đã 72 tuổi, cuộc đời và câu chuyện từ nửa thế kỷ, tôi mới được nghe kể như một thông tin mới.
Khi bài viết trên được đọc trên Đài Phát thanh TNVN thì tôi nhận được hồi âm: Người thay mặt tổ chức Việt kiều yêu nước ở Thái Lan năm 1948 trực tiếp nhận số vàng do Nguyễn Như Kim giao, hiện có mặt ở Hà Nội, nhắn tôi đến gặp để đính chính về một chi tiết sai trong bài.
Điều này làm tôi mừng hơn lo. Là người viết câu chuyện thực, chịu trách nhiệm với độc giả, tôi rất cần có sự đối chứng, nếu ở thành phố Hồ Chí Minh, có lẽ tôi đã tìm đến ông Đặng Văn Qua (nguyên Phó Cục trưởng Cục Đường biển) để hỏi thêm. Nay lại đột nhiên xuất hiên một nhân chứng quan trọng để tôi tham khảo, còn gì bằng!
Tôi tìm cụ Trần Hữu Quảng ở nhà riêng, không gặp, người nhà cho địa chỉ khác: Vườn thuốc nam của hợp tác xã thuốc dân tộc Chùa Bộc ở cuối Khương Hạ. Cụ xuống đây cho tĩnh để viết sách. Tôi lại tìm đến vườn thuốc nam, cũng không gặp. Nhân ngồi nói chuyện với cụ già coi vườn thuốc mới biết thêm về cụ Quảng: Năm ấy cụ đã 96 tuổi, vẫn đang là chủ nhiệm hợp tác xã kể trên gồm khoảng ba chục lương y.
Tôi chỉ kịp thu nhận mấy điều chủ yếu cụ nói xen giữa câu chuyện: "Bài báo của anh đúng với con người và sự việc ông Nguyễn Như Kim đã làm. Chỉ có một chi tiết sai: Hồi đó tôi nhận ở ông Kim số vàng 18 ki-lô, toàn vàng lá sư tử. Tôi lo lắng cất giữ chưa đến nửa năm mà gầy sụt đi 4,5 ki-lô. Đây chắc là mồ hôi nước mắt của dân đóng góp cho Tuần lễ Vàng, đâu phải chuyện chơi!...
Hồi đó đồng chí Nguyễn Đức Quỳ (sau là Thứ trưởng Bộ Văn hoá) lãnh đạo chúng tôi. Tổ chức Đảng họp, nhất trí giao trọng trách giữ số vàng đó cho tôi, lúc đó tôi phụ trách Thanh niên Tổng Hội Việt kiều cứu quốc ở Thái. Tôi phải tìm chỗ cất giấu sao cho kẻ xấu không thể phát hiện. Mỗi khi xuất vàng ra mua hàng đều phải có giấy do ông Nguyễn Đức Quỳ và Nguyễn Như Kim ký xuất…
Tôi phải cảm ơn đất trời để cụ Quảng thọ cho đến ngày hôm ấy mà vẫn còn minh mẫn để kể lại điều này! Nhưng với người viết, số lượng vàng 10 hay 18 ki-lô lại là điều ít quan trọng nhất bên cạnh chất vàng ròng của những con người đáng quý như ông Nguyễn Như Kim và cụ Trần Hữu Quảng

Hồi ký của Trần Đỗ Cung trên “Người Việt online” 18/03/2007
Sau vài năm kháng chiến đảng cộng sản nắm vững tình thế nên từ bỏ nhãn hiệu Việt Minh. Chúng đưa cán bộ vào phụ trách các việc quan yếu, chuyển Hoàng Ðạo Thúy qua chỉ huy Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn, Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng phát triển Khoa Học Kỹ Thuật. Các đoàn viên nổi tiếng như Nguyễn Như Kim, con rể cụ Ðốc Trần Văn Thìn, được gửi đi Thái Lan đem vàng mua các thiết bị vô tuyến cho kháng chiến. Ðoàn viên Ðặng Văn Việt lên mặt trận Việt Bắc vang danh với biệt hiệu Con Hùm Xám Quốc Lộ 4. Các đoàn viên khác như Hoàng Kim Hải, Ngô Ðiền, Hoàng Ðình Phu, Lê Bá Hoan, Nguyễn Trinh Tiếp đi phụ trách các công việc của Cục Quân Giới, hệ thống truyền thanh báo chí. Riêng tôi sau khi Ðại Ðội Sinh Viên Chiến Ðấu tan hàng lang thang ở Cự Ðà, Ðồng Quan, Cống Thần thì được cán bộ giao liên Thành tuyển mộ lên Hòa Bình nhập toán nghiên cứu quân giới của kỹ sư Trần Ðại Nghĩa. Nhưng khi tôi đeo ba-lô đạp xe đến Vân Ðình thì Pháp nhẩy dù xuống, dội lại và mất liên lạc luôn trở về chợ Ðồng Quan bán thuốc Tây độ nhật. Mãi đến tháng 9, 1947 thì cán bộ Thành trở lại tuyển tôi trở về Hà Nội do thám tình hình quân Pháp.
Hôm ấy khi tôi đang ngồi ở chợ Ðồng Quan thì Thành (tên thật là Phạm Phú Ưng, con cụ Án Sát Thanh Hóa, học dưới tôi năm lớp ở Lycée Khải Ðịnh)
Vân Long viết trên Người đại biểu nhân dân Nhớ về những ngày tháng Tám lịch sử

Khi những người trực tiếp biết về những ngày tháng Tám lịch sử năm 1945 thưa dần, thì sự nhìn và thấy của tôi dù nhỏ cũng có thể góp chút gì đó cho bạn đọc hình dung một phần không khí lúc đó.

62 năm đã trôi qua, tôi năm đó mới 8 tuổi. Những biến động xã hội lúc đó đã tác động mạnh lên tâm trí trẻ thơ của tôi. Hàng xóm nhà tôi có anh Đắc, là một hướng đạo sinh được đi cắm trại đây đó. Một hôm, anh sang nhà tôi, thuyết phục chị tôi tham gia đoàn khất thực khu phố, đi quyên góp từ đầu phố đến cuối phố bất cứ cái gì ăn được, mặc được, tập trung lại rồi phân phát cho những người ăn xin sắp chết vì đói, vì lạnh. Tôi rụt rè hỏi: Em muốn vào đoàn Hướng đạo, có được không anh? Anh bảo: Tuổi của em chỉ được sinh hoạt Sói con, Hướng đạo sinh phải từ 12-18 tuổi. Rồi như động lòng trước sự nài nỉ của tôi, anh đã khai thêm tuổi cho tôi vào Đoàn Hướng đạo Thăng Long của anh.
Anh Đắc năm đó 16 tuổi, hơn chị tôi hai tuổi, nhưng tôi thấy anh có vẻ người lớn lắm. Còn nói gì đến anh Đoàn trưởng Nguyễn Như Kim 23 tuổi, sinh viên năm thứ ba trường Cao Đẳng khoa học Hà nội. Anh Kim như một thần tượng với lũ trẻ 12-13 chúng tôi với hàng chục bằng chuyên môn của hướng đạo sinh, biểu thị bằng những chiếc huy hiệu gài trên ngực áo: bằng bơi lội, truyền tin, nấu ăn, dựng trại... Anh làm chúng tôi phục sát đất về sự tháo vát, linh hoạt của một huynh trưởng. Những lần đi cắm trại, tôi cứ thấy mấy anh lớn hay bàn bạc với nhau, lúc thầm thì, khi sôi nổi. Thấy bọn nhóc chúng tôi đến, các anh thường lảng sang chuyện khác. Khoảng tuần đầu tháng Tám năm đó, anh Đắc trao cho tôi một gói giấy bảo đưa cho chị tôi. Trước khi đưa, anh bắt tôi hứa lời hứa của hướng đạo sinh, không được cho ai biết những gì trong đó. Hoá ra trong gói là tấm vải đỏ và những ngôi sao lụa vàng đã cắt sẵn, nhờ chị tôi máy vì nhà có chiếc máy khâu cũ. Còn nhỏ, nhưng tôi đã biết lá cờ này liên quan đến những câu chuyện rầm rì của các huynh trưởng hướng đạo. Chị tôi thức rất khuya may cờ, ngày lại giấu biệt đâu đó.
Thành phố chộn rộn một không khí khác lạ…
Chỉ bằng vào ghi nhận của trí nhớ non nớt, chắc tôi không thể xếp sắp chính xác các sự việc. May nhờ bài báo của Nguyễn Như Kim trên bản Tin hoạt động các Hội Khoa học và Kỹ thuật, cách đây hai năm mà tôi nhớ lại cụ thể những ngày này. Thì ra cuộc míttinh tôi được dự ngày 17 tháng Tám do các công chức của chính quyền thân Nhật tổ chức. Các diễn giả Cách mạng đã cướp diễn đàn, tuyên truyền ủng hộ Việt Minh. Khi khẩu hiệu Ủng hộ Việt Minh! Nước Việt Nam của người Việt Nam được tung ra, khắp Quảng trường Nhà hát Lớn xuất hiện những lá cờ đỏ sao vàng đủ kích cỡ. Theo hiệu triệu của một diễn giả cách mạng, cuộc míttinh biến thành cuộc tuần hành thị uy rầm rộ ủng hộ Mặt trận Việt Minh. Đoàn tuần hành đi đến đâu hút người theo đến đó, người trên các phố như một dòng sông, nước tràn bờ... Lúc đầu tôi chỉ chạy theo trên hè phố như người đi “xem”, sau hòa luôn vào dòng người lúc nào không hay và chiều về đến nhà thì khản đặc cổ vì hò reo, hô khẩu hiệu…
Hai ngày sau đó, cả Hà Nội như một biển dầu sôi, mọi người công khai bàn bạc, bộc lộ chính kiến, lên án những kẻ thân Nhật. Anh Kim đang thời gian đi thực tập ở Sở Máy điện Bờ Hồ, tham gia hoạt động cùng công nhân ở đó, đã ghi lại: “Thực ra, ít ai biết rõ những sự kiện gì sẽ xẩy ra, chỉ biết tất cả đều được động viên may cờ, biểu ngữ, phân công tự vệ, trật tự, tuyên truyền, sẵn sàng mọi thứ để hôm nay (19.8.1945) tập hợp tại Quảng trường Nhà hát Lớn cho một cuộc míttinh khổng lồ…”
Lúc này may cờ gần như hoạt động công khai. Có thể nói không khí chuẩn bị “nóng” lên từng ngày. Bài báo anh Kim ghi tiếp: “Đúng ngày 19.8 nhóm chúng tôi (những công nhân Sở Điện Bờ Hồ) được biết nhiệm vụ phải treo một lá cờ lớn, bao phủ mặt ngoài cửa hàng xe đạp trước mặt Nhà hát Lớn, sau này là cửa hàng Kim khí và hiện nay là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội) nhóm chúng tôi mang theo một bọc cờ nặng cùng dây thừng leo theo đường máng nước, lên nóc tầng hai, nhìn sang bên kia là Nhà hát Lớn, sừng sững trên Quảng trường tràn đầy cờ đỏ sao vàng, các tổ chức quần chúng đã tề tựu hàng ngũ chỉnh tề...”
Cũng sáng sớm hôm đó, mấy anh đội trưởng hướng đạo đưa chúng tôi vào cửa bên của Nhà hát Lớn. Các anh nói gì đó với người bảo vệ và chúng tôi được đưa lên thẳng nóc Nhà hát. Tôi choáng cả người khi bước lên sân trời trên tầng cao lộng gió. Một sân trời rộng thênh thang, từng quãng nhô lên những khối vuông dựng đứng có lắp kính, mái lợp bằng đá xám. Nhìn xuống Quảng trường thì ngợp vì độ cao đến chóng mặt, các đoàn người nhỏ xíu từ các ngả dần dần kéo tới. Chúng tôi sung sướng vì các anh đội trưởng cho chơi tự do ở cái sân chơi độc đáo này, chơi trò trốn tìm thì thật tuyệt, rất nhiều góc nấp. Đang chơi, tôi vẫn để ý mấy anh hay nhìn đồng hồ tay và hay ngó xuống Quảng trường như chờ đợi một điều gì hệ trọng.
Rồi thì điều ấy đã đến: Một toán người ăn mặc như những công nhân mắc điện, khoác những cuộn thừng lớn, lại khiêng theo một bao tải khá nặng. Chúng tôi ùa đến xem, các anh dốc ngược bao tải, một lá cờ đỏ sao vàng khổng lồ rơi ra, chúng tôi xúm vào phụ giúp rải lá cờ trên sân trời. Mấy anh đội trưởng cùng tốp công nhân loay hoay buộc, tìm cách cố định hai góc lá cờ vào hai điểm trụ hai bên nóc Nhà hát. Một anh không làm gì, nhưng mắt đăm đắm nhìn xuống Quảng trường như chờ một hiệu lệnh, rồi anh bỗng quay lại, mặt đỏ bừng không rõ vì phấn khích hay sắc hồng của lá cờ ánh lên mặt anh, anh quát to: “Các anh em, thả cờ xuống!”
Tất cả chúng tôi khoảng hơn chục người lớn và vài chục hướng đạo sinh nhỏ tuổi xúm lại ôm, đẩy “khối cờ” khỏi sân trời. Nhưng khối cờ rơi xuống mặt tiền Nhà hát chưa kịp mở hết đã bị một trận gió mạnh thổi tung lên. Chưa bao giờ tôi được chứng kiến một lá buồm khổng lồ hồng rực trong nắng sớm bốc bay lên như vậy! Dù còn trẻ thơ, tôi vẫn linh cảm từ lá cờ này sẽ xuất hiện những ngày mới, không còn cảnh lính Nhật nhục hình những người trộm thóc ngựa, cảnh người chết đói ngay trước cửa mỗi nhà… Chưa hết bàng hoàng thì một khoảng vàng rực đổ ụp xuống đầu tôi, tôi nhớ có đến ba đứa chúng tôi bị chụp gọn, lúng túng trong ngôi sao vàng, còn các anh khác thì như một đàn cá trong lưới, cũng đang lần tìm lối ra để tóm được mép cờ. Sau đó hình như các anh buộc hai vật gì nặng lắm vào đầu thừng, dây thừng đầu kia lại buộc vào góc lá cờ dòng dần xuống, mới không bị gió bốc lên lần nữa. Ở trên cao như thế, lại gặp những ngọn gió lớn đầu Thu, chúng tôi thành những người may mắn tiếp nhận biểu tượng của Cách mạng trong một bối cảnh kỳ lạ như vậy!
Tôi chỉ là một đứa trẻ trong những ngày lịch sử 62 năm về trước, nhưng nhờ được hoạt động trong Hội Hướng đạo cùng những huynh trưởng cấp cao như Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu và gần gụi hơn là những người anh như Nguyễn Như Kim đã tạo cho tôi cơ hội chứng kiến sự kiện lịch sử trên. Và quan trọng hơn, đặt tôi vào cái nền nhân văn, hướng thiện trong những ngày đầu Cách mạng bằng chính nhân cách của các anh!
Vân Long
Tráng sinh và Huynh Trưởng bài viết trên Công an Nhân Dân 18/01/2007

Giáo sư, hiệu truởng Tạ Quang Bửu ( người ngồi thứ 3 từ trái sang ).
Kỹ sư Nguyễn Như Kim là Chủ nhiệm Liên khoa Cơ khí và điện - vô tuyến điện từ khi Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội mới thành lập. Năm nay, ông đã ở tuổi 85, còn rất minh mẫn, khỏe mạnh. Ông bảo: "Những bước ngoặt của đời tôi đều có sự gắn bó, chỉ đạo của Giáo sư Tạ Quang Bửu, vị hiệu trưởng đầu tiên của trường...".
"Cõng" vàng sang Thái Lan
Giáo sư Tạ Quang Bửu sinh năm 1910, tức là hơn ông Nguyễn Như Kim 12 tuổi. Trong gia phả họ Tạ Quang ở Hoành Sơn, Nam Đàn, Nghệ An có ghi: "Phụ giáo tử đăng khoa, cử nhân tại quán" (Cha dạy con đi thi, đỗ cử nhân không ra làm quan).
Tạ Quang Bửu thời trẻ nổi tiếng thông minh sáng láng. Từ năm 1929, sau khi đỗ đầu cả tú tài Tây lẫn tú tài bản xứ, ông được nhận học bổng sang Pháp, học toán ở các trường đại học Paris, Bordeaux, rồi sang Anh ở Oxford.
Nhưng ông học chỉ cốt lấy kiến thức, không lấy bằng cấp, từ năm 1934 về nước đi dạy học. Thời ấy Hướng đạo sinh vốn là một phong trào của học sinh, sinh viên phương Tây, du nhập vào nước ta những thập niên đầu thế kỷ XX, mà người có công khởi xướng là các ông Hoàng Đạo Thuý (sau làm Cục trưởng Thông tin liên lạc đầu tiên của quân đội ta) và Tạ Quang Bửu (Các vị đứng đầu Hướng đạo sinh được kính trọng gọi là huynh trưởng).
Hướng đạo sinh Việt Nam thời kỳ những năm 1940-1945 tập hợp được nhiều thanh niên trí thức ở thành phố, hướng vào các hoạt động lành mạnh, yêu nước thương nòi. Từ năm 1941, Nguyễn Như Kim học khoá đầu tiên Trường Cao đẳng Khoa học Hà Nội và là một tráng sinh của Tráng đoàn Lam Sơn, luôn lấy tấm gương của huynh trưởng Tạ Quang Bửu để noi theo.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra, Nguyễn Như Kim cùng các bạn học ở Hà Nội đều "xếp bút nghiên lên đường tranh đấu", mà sau này phần đông trong số họ đều trở thành những nhà khoa học, văn nghệ sĩ hay nhà quản lý có tên tuổi của chế độ mới như: Hoàng Đình Phu, Nguyễn Văn Chiểu, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Phan Mỹ, Ngô Điền, Dương Đức Hiền, Tôn Thất Hoàng, Nguyễn Thúy Liễu…
Huynh trưởng Tạ Quang Bửu từ ngày đầu tham gia kháng chiến đã là thành viên Chính phủ, tháng 3/1946 đảm nhiệm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, còn Tráng sinh Nguyễn Như Kim đầu năm 1947 được kết nạp Đảng, là Phó Giám đốc kỹ thuật của Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam (thời kỳ đầu bộ phận kỹ thuật của Đài trực thuộc Bộ Quốc phòng).
Một ngày giữa năm 1948, Văn phòng Bộ Quốc phòng mời ông Nguyễn Như Kim lên làm việc. Vừa gặp, Huynh trưởng đã tặng cuốn sách mới viết "Nguyên tử, hạt nhân, vũ trụ tuyến", in rônêô, dành cho anh em Nha Nghiên cứu kỹ thuật, Cục Quân giới.
Cuốn sách được tác giả viết trong có 3 ngày, hoàn thành vào 7/10/1947, thì ngày hôm sau Pháp nhảy dù xuống Chợ Đồn, Bắc Kạn, định "chụp" cơ quan đầu não của Chính phủ kháng chiến, nhưng đã thất bại.
Ngày đó thiếu thốn đủ bề, cán bộ kỹ thuật có được cuốn sách tham khảo thế này thì thật quý biết bao! Sau ít phút hàn huyên, Thứ trưởng Tạ Quang Bửu giao cho ông Nguyễn Như Kim một nhiệm vụ đặc biệt là mang vàng sang Thái Lan mua một số linh kiện, thiết bị quý hiếm cho đài, cùng một số khí tài vô tuyến điện cho quân đội.
Thật bất ngờ và phấn khởi vì được Đảng, Chính phủ tin cậy, ông khẩn trương chuẩn bị lên đường. Ngày đó, ngân khố quốc gia có được một số vàng là do đồng bào cả nước đóng góp trong "Tuần lễ vàng". Không có két sắt, vàng của Chính phủ kháng chiến được cất trong các hòm kẽm mà không phải khoá, chỉ dán niêm phong vẫn rất an toàn.
Người ta mang đến cho Nguyễn Như Kim một bọc vàng, ông chằng kỹ, bên ngoài còn cẩn thận ốp thêm tấm mo cau, rồi buộc sau poocbaga xe đạp. Có lúc qua sông, người lái đò phải bê giúp xe, hỏi: "Đèo cái gì nhỏ mà nặng thế?". Chẳng ai có thể ngờ một "anh nông dân" lại đàng hoàng đèo một kho vàng trên chiếc xe đạp cà tàng như vậy!
Đến Đô Lương (Nghệ An), như kế hoạch đã định, Nguyễn Như Kim nhập vào một đoàn công tác sang Thái Lan. Từ đó ròng rã hàng nửa năm trời, bọc vàng nằm trong ba lô được ông "cõng" cắt rừng, trèo đèo, lội suối, trên đường đi còn luôn bị kẻ địch, cùng thú dữ rình rập.
Qua đất Lào, vượt sông Nậm Ca Đinh là sang Thái Lan. Cuối cùng thì bọc vàng đã được bàn giao cho tổ chức của ta bên ấy, không suy suyển một li, một lai...
Câu chuyện về chuyến xuyên bán đảo Đông Dương này, về sau được nhà thơ Vân Long viết lại, lúc đó ông Nguyễn Như Kim chỉ nhớ ang áng bọc vàng nặng khoảng 10kg.
Khi bài báo được phát trên làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam, thì có một thính giả phản hồi: "Viết vậy chưa chuẩn đâu. Số vàng mà tôi nhận từ chính tay ông Nguyễn Như Kim bàn giao là 18kg kia, toàn loại vàng lá sư tử. Ngày ấy vì lo giữ số vàng này để mua hàng cho Chính phủ kháng chiến mà tôi sụt đến năm, sáu kí đấy".
Nhà thơ vội tìm đến địa chỉ: Hợp tác xã thuốc dân tộc Chùa Bộc (Hà Nội) và gặp "người phản hồi" là cụ Trần Hữu Quảng, 96 tuổi, vốn là Việt kiều ở Thái Lan…
"Về đi, giúp tôi xây dựng trường đại học kỹ thuật đầu tiên"
Chuyến đi xuyên bán đảo ngày ấy đã kết thúc một cách bi hùng. Tàu chở hàng của Nguyễn Như Kim từ vịnh Thái Lan đi vòng biển Đông, đến gần đảo Hải Nam thì bị tàu chiến Pháp chặn đánh.
Ông cùng thủy thủ đoàn đã chuẩn bị cho tình huống xấu nhất này, chiến đấu đến phút chót, rồi tưới xăng đốt tàu, hàng không thể rơi vào tay giặc, tất cả cùng nhảy xuống biển.
Do bám được vào một mảnh ván, ông Nguyễn Như Kim sau đó bị địch bắt. Một năm tra tấn, tù đày ở bót Catinat Sài Gòn, ông một mực khai là đi buôn gạo. Sau đó địch thả ông. Cuối năm 1950, gia đình cùng tổ chức bố trí cho ông sang Pháp học để chờ thời cơ mới.
Sang Paris, ông học chuyên ngành điện tử và vừa học vừa làm tự nuôi mình. Thông thường, muốn có bằng kỹ sư công nghệ điện tử phải thi lần lượt lấy 5-6 chứng chỉ và mỗi chứng chỉ phải học một năm.
Nhưng ông đã làm các giáo sư Pháp ngạc nhiên khi một năm đạt liền hai chứng chỉ. Sau khi tốt nghiệp, ông được mời làm trợ giáo cho giáo sư Boutry, là một nhà vật lý điện tử nổi tiếng và chính thức ăn lương của Bộ Giáo dục Pháp.
Trong thời gian học ở Pháp, ông gặp lại bà Trần Thị Ân, người bạn gái thân thiết hồi ở Cao đẳng Khoa học Hà Nội. Ngày ấy "tình trong như đã, mặt ngoài còn e", lúc ông bị giam ở bót Catinat, bà Trần Thị Ân đã nhờ người gửi thư, quà vào động viên ông.
Bà Trần Thị Ân học dược ở Hà Nội, sang Paris làm tiếp tiến sĩ. Cuối năm 1951 hai người đã đính hôn tại quận Sorbonne, trước sự chứng kiến của ông quận trưởng. Đến giờ, đã qua "cưới vàng", trong ví của ông bao giờ cũng để tấm ảnh bà ngày đó, ngón tay giữa của ông vẫn đeo cái nhẫn mà bà trao trong lễ cưới cách nay đã hơn nửa thế kỷ.
Lúc ông bà đã có với nhau hai mặt con, sống trong một biệt thự mua trả góp ở ngoại ô Paris, ngày ngày đi làm bằng ôtô riêng, thì có khách từ trong nước đến thăm. Đó là hai Giáo sư y khoa Hồ Đắc Di và Trần Hữu Tước. Hai vị chuyển lời của Giáo sư Tạ Quang Bửu, Phó chủ nhiệm, kiêm Tổng thư ký Ủy ban khoa học Nhà nước: "Anh về đi, giúp tôi xây dựng trường đại học kỹ thuật đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà". Đó là vào giữa năm 1956.
Gia đình ông trở về Hà Nội đúng vào dịp khai giảng Trường Đại học Bách khoa. Vợ ông được bố trí dạy ở Trường Đại học Y dược, bộ môn Sinh hoá và sau này bà được tín nhiệm bầu là đại biểu Quốc hội 4 khoá liền (khoá IV - VII).
Ông được gặp lại "Huynh trưởng" trên cương vị Hiệu trưởng và bạn học cũ Hoàng Xuân Tuỳ là Hiệu phó. Bất ngờ đến với ông như ngày xưa khi được "chọn mặt gửi vàng", lần này thì là một trọng trách: Chủ nhiệm Liên khoa Cơ khí và điện - vô tuyến điện.
Nhiệm vụ quá nặng nề, làm việc ở Pháp có đầy đủ đội ngũ giáo sư, tiến sĩ, phòng thí nghiệm hiện đại…, còn đây từ tay trắng, ngoài 4 dãy nhà của Đông Dương học xá cũ, một sân vận động bỏ hoang và vài chục cán bộ khoa học từ chiến khu về.
Thấy ông còn phân vân, "Huynh trưởng" cười mà ôn tồn nói: "Cách mạng là thế! 10 năm trước từ một tiểu đội ở chiến khu, quân đội ta lớn lên qua chiến đấu, đi tới thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy. Bây giờ ta cần quyết tâm, vừa làm vừa học, xây dựng cho được một trường đại học kỹ thuật để kịp thời phục vụ sản xuất, chiến đấu…".
Ông lại hăm hở bắt tay vào nhiệm vụ mới (sau này liên khoa tách ra các Khoa Cơ khí - Điện và điện tử) và gặp lại những bạn học cũ ngày nào như: Phạm Đồng Điện (Khoa Hoá), Nguyễn Đức Thừa (Khoa Luyện kim), Nguyễn Văn Chiển (Khoa Địa chất).
Sau mấy năm bị đi tù và ra nước ngoài, gián đoạn sinh hoạt Đảng, giờ ông lại được sinh hoạt trong Đảng bộ nhà trường. Khó khăn nhất giai đoạn này là phải tự xây dựng lấy Khoa Vô tuyến điện, vì Liên Xô tuy nhận giúp ta xây dựng toàn bộ trường nhưng lại "bỏ sót" khoa này.
Trong một trường đại học kỹ thuật nhất thiết học phải đi đôi với hành, ông đã cùng các đồng nghiệp gấp rút xây dựng các phòng thí nghiệm, để không có tình trạng dạy chay học chay.
Vài năm sau, Liên khoa có thêm những cán bộ học ngành Điện, Vô tuyến ở Trung Quốc về như: Nguyễn Thế Hùng, Hà Học Trạc, Nguyễn Bình Thành, Nguyễn Văn Ngọ, Bùi Minh Tiêu, Vũ Văn Sang; ở Pháp về có Phương Xuân Nhàn…
Sinh viên các khoá lần lượt ra trường và bổ sung lực lượng kịp thời cho sản xuất và chiến đấu. Thời kỳ Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc, sinh viên năm cuối (năm thứ 5) được tốt nghiệp sớm, Bộ Quốc phòng tiếp nhận toàn bộ để đưa về các đơn vị trực tiếp chiến đấu như rađa, tên lửa, hải quân, không quân…
Một kỷ niệm không quên với thầy Chủ nhiệm khoa Nguyễn Như Kim là, năm 1965, Trường Bách khoa đã thử nghiệm thành công vô tuyến truyền hình cáp, được Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm, và "con gái rượu" của Bí thư Đảng ủy Bùi Nguyên Cát trở thành người dẫn chương trình đầu tiên trên vô tuyến truyền hình ở Việt Nam.
Sau này thầy Nguyễn Như Kim do yêu cầu nhiệm vụ đã thôi công tác ở Trường Đại học Bách khoa, chuyển sang đơn vị mới. Ông vẫn giữ được mối liên hệ với người Huynh trưởng đáng kính của mình.
Giáo sư Tạ Quang Bửu qua đời ngày 21/8/1986 tại Hà Nội, để lại bao thương tiếc cho tất cả những ai từng sống, làm việc với ông, nhất là với thế hệ kế cận - các tráng sinh trong đoàn Hướng đạo sinh của ông dạo nào!
Phạm Quang Đẩu

Tin buồn trên Diễn đàn của Việt Kiều tại Pháp :
Cụ Nguyễn Như Kim
(1922-2008)

Chúng tôi được tin cụ Nguyễn Như Kim đã từ trần ngày 4.10.2008 tại Hà Nội, thọ 87 tuổi. Linh cữu đã được an táng tại nghĩa trang Văn Điển. Cụ Nguyễn Như Kim tốt nghiệp kỹ sư tại Pháp và đã về nước tham gia xây dựng Đại học Bách Khoa Hà Nội năm 1956.
Diễn Đàn xin thành thực chia buồn cùng cụ bà, chị Nguyễn Kim Ánh và toàn thể gia quyến.

Thứ Năm, 23 tháng 7, 2009

TÀU CHỞ 4900 Ô TÔ TỰ ĐỨT DÂY HẠ THỦY

Nguyễn Soạn có báo tin tôi về dự hạ thủy Hạ Long,nhưng lúc đó tôi đang còn lang thang trên đường từ Trạm Giang trở về.Vào buổi chiều 21/07/09 lúc 4 giờ có gọi điện cho kỹ sư Nguyễn Văn Tiến,được Tiến cho biết,tàu đã tự "tụt xuống" an toàn...Tiến nói vội vàng,có lẽ đang bận điều hành công việc hậu quả....

Và sau đây là trích đăng các báo :
Theo Lao Động Điện tử Cập nhật: 7:09 PM, 21/07/2009

Sự cố hi hữu xảy ra 45 phút trước giờ hạ thuỷ tàu Victory Leader chiều 21.7. Không đợi lệnh hạ thuỷ, con tàu có sức chở 4.900 ôtô này đã "tự" dứt tung dây cáp néo, rầm rầm lao xuống mặt nước, trong sự ngỡ ngàng của hàng nghìn người đến dự buổi lễ hạ thuỷ.
Sự cố diễn ra lúc 15 giờ 15 phút, ngày 21.7, tức là 45 phút trước giờ hạ thuỷ tàu Victory Leader theo kế hoạch. Con tàu này do Nhà máy đóng tàu Hạ Long (Quảng Ninh) đóng theo đơn đặt hàng của Cty vận tải ô tô RAY của Israel.
Tại hiện trường, sau khi con tàu trôi theo triền đà xuống sông, tàu vẫn nổi, cân bằng và lập lờ trôi như vừa được hạ thuỷ một cách thành công. Trên triền đà, các bộ chống đổ rập hàng loạt, các đầu cáp liên kết giữ tàu bị đứt, văng tứ tung. Một trong 3 bộ dầm trượt tàu vẫn bị hãm lại chưa mở (2 bộ đỡ thân và đuôi tàu lao theo xuống sông cùng con tàu).



Tàu Victory Leader tự đáp xuống nước trước giờ hạ thuỷ. Ảnh: T.N.D.

Sự cố hạ thuỷ này đã được ông Nguyễn Đức Thận - Tổng Giám đốc Cty đóng tàu Hạ Long- sau khi kiểm tra đã có thông báo tới các đại biểu: "Toàn bộ tình trạng của con tàu vẫn ở trạng thái rất tốt"! Sự cố cũng không gây ra thương vong về người. Ngay sau đó, con tàu đã được các tàu đẩy nhỏ hỗ trợ đưa vào cầu bến một cách an toàn".

Tàu thật đã "tự tiện" hạ thuỷ, đành mở rượu chúc phúc cho con tàu "mô hình".

Tàu HL01- Victory Leader là con tàu theo phân cấp 1A1- cấp cao nhất đối với tàu chở ô tô với chiều dài 189,30 mét, rộng 32,26 mét, chiều cao là 38,91 mét; bao gồm 11 boong chứa xe, trong đó có 9 boong cố định, 2 boong nâng hạ bằng thuỷ lực với tốc độ khai thác tối đa 19,8 hải lý/ giờ. Đây là con tàu hiện đại, đáp ứng các thông số khắt khe của cơ quan đăng kiểm quốc tế DNV (Na Uy)- phân cấp và cập nhật các công ước mới nhất của tổ chức Hàng hải quốc tế IMO.
Tàu Victory Leader được thiết kế hoạt động ở chế độ không trực canh (nghĩa là hoàn toàn tự động hoá quá trình vận hành, kiểm soát tình trạng máy móc, thiết bị làm hàng bằng máy tính và camera). Ngoài trang bị các kỹ thuật điều khiển tiên tiến, tàu còn có hệ thống các phong nghỉ, phong làm việc, bể bơi, phòng thể thao... như một khách sạn hạng sang.
Buổi lễ đã kết thúc bằng nghi thức đặt tên và đập chai sâmbanh tượng trưng vào một con tàu mô hình do bà Phạm Thuý Hồng - bà mẹ đỡ đầu Victory Leader - thực hiện.



Các đai liên kết "dầm kê trượt tàu" và những dây cáp to không thể giữ nổi con tàu. Ảnh: T.N.D.

Còn đây là đưa tin của phóng viên Anh Quân (Hà Linh Quân Nguyễn Văn Sinh ?) trên Vn Economy
Chiều qua 21/7, buổi lễ hạ thủy con tàu chở ôtô đầu tiên được đóng mới tại Việt Nam, với sức chứa 4.900 xe ô tô - Victory Leader, đã gặp trục trặc khi tàu đột nhiên “phá bung” dây cáp néo, lao rầm rầm xuống nước, trước sự hốt hoảng của hàng nghìn người.

Tàu Victory Leader trước ngày hạ thủy. (Ảnh: Báo Quảng Ninh)

Những tiếng động lớn liên tiếp phát ra từ phía con tàu biển chở ôtô - có sức chứa 4.900 xe - đã át đi lời “chào hỏi” quan khách trong bài phát biểu của đại diện Công ty Đóng tàu Hạ Long, trong lễ hạ thủy con tàu này, vào chiều qua 21/7.

Hàng trăm công nhân chạy nháo nhào ra khỏi con tàu - lúc này đang từ từ trượt xuống theo triền đà. Cách đó vài chục mét, trong chiếc lán nơi tổ chức lễ hạ thủy, hàng loạt quan khách đứng bật dậy hốt hoảng. Con tàu dài 185,6 mét, rộng hơn 32 mét và chiều cao mạn tới gần 39 mét tính đến cabin buồng lái, tự trọng 14.300 DWT, phá tung dây cáp néo, lao mình xuống nước rồi giảm dần tốc độ và dừng lại giữa dòng sông.

Vào lúc 15 giờ 17 phút chiều 21/7, tức sớm hơn giờ dự kiến hạ thủy khoảng 45 phút, con tàu Victory Leader đã “tự” hạ thủy.

Tại buổi họp báo diễn ra sau đó hơn một giờ, ông Nguyễn (viết sai tên ,phải là Phạm) Thanh Bình, Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) thông báo: “Mặc dù có một trục trặc nhỏ, nhưng mọi việc đã an toàn”. Sự cố đã không gây ra thương vong nào.

Đại diện phía chủ tàu, ông Rami Ungar, cho rằng trục trặc này chỉ là sự nôn nóng của anh em kỹ thuật. “Trong quá trình hạ thủy con tàu, người ta phải chuẩn bị phải tháo bỏ tất cả các căn kê dưới đáy tàu, để lại trụ kê lớn ở dưới đáy tàu cho đến thời khắc cuối cùng. Lúc đó rồi mới tháo bỏ các trụ kê lớn đó và cắt dây hãm trên đầu tàu, thì con tàu sẽ xuống nước. Nhưng do nôn nóng cho nên anh em mới tháo bỏ hai căn kê sớm quá, dẫn tới quá tải ở dây hãm. Theo khảo sát của chúng tôi vừa rồi thì không có thiệt hại gì”, ông cho biết.

Ông Nguyễn Đức Thận, Tổng giám đốc Công ty Đóng tàu Hạ Long, cho biết đến nay công ty đã hạ thủy 5 con tàu 53.000 tấn, kích thước tương đương với con tàu vừa hạ thủy. “Lần hạ thủy này này gặp trục trặc do chủ quan của người thợ, dù chưa có lệnh anh em đã tự tiện tháo bớt căn. Tuy nhiên, không thể nói đây là không có vấn đề gì xảy ra, mà đó là vấn đề phải hết sức rút kinh nghiệm trong quá trình hạ thủy. Bởi vì những sản phẩm rất lớn, rất quan trọng như thế này thì càng thận trọng bao nhiêu càng tốt. Tôi nghĩ rằng sẽ phải họp kiểm điểm rút kinh nghiệm, và chắc chắn con tàu thứ hai sẽ không có chuyện như thế này xảy ra nữa”.

Ông Rami Ungar thì khẳng định, trục trặc này sẽ không ảnh hưởng đến hợp đồng đóng các con tàu tiếp theo mà phía chủ tàu đã ký với Vinashin. “Điều quan trọng nhất là phía sử dụng con tàu này là một tập đoàn vận tải biển, chuyên chở ôtô là NYK của Nhật Bản. Một công ty lớn như thế đã vào đây khảo sát, hôm nay đã nhận con tàu này và trong tương lai sẽ tiếp tục nhận những con tàu khác. Điều đó là một minh chứng về khả năng kỹ thuật của Việt Nam, bởi việc đóng con tàu này thực sự rất khó về mặt kỹ thuật”, ông nói.

Vị đại diện phía chủ tàu cho biết thêm, trên thế giới có ba chủng loại tàu chở ôtô là cỡ nhỏ, cỡ trung và cỡ lớn. Con tàu hạ thủy hôm nay là cỡ trung cao, sức chở 4.900 ôtô, có giá trị ước tính hơn 50 triệu USD. Loại cỡ lớn hơn chở được 6.000 đến 8.000 ôtô.

Victory Leader là con tàu chở ôtô đầu tiên được đóng mới tại Việt Nam, do Viện Thiết kế Naval Progetti (Italia) thiết kế, cơ quan đăng kiểm DNV của Na Uy phê duyệt thiết kế, giám sát thi công và phân cấp tàu theo cấp 1A1, là cấp tàu cao nhất đối với tàu chở ôtô.

Victory Leader gồm 13 boong, trong đó có 11 boong chứa ôtô (9 boong cố định và 2 boong nâng hạ bằng thủy lực), với nhiều tính năng điều khiển tự động trong quá trình vận hành, kiểm soát tình trạng máy móc, thiết bị.

Đây là sản phẩm đóng mới hiện đại nhất của ngành đóng tàu Việt Nam. Ngoài hệ thống các phòng nghỉ và công tác của thuyền viên, tàu còn có trang bị nhiều hạng mục hiện đại. Các bể bơi, sân chơi và sinh hoạt chung của tàu được thiết kế như của các khách sạn hạng sang.