Cao yên quán thanh không Khói ùn ùn tuôn lên trời
xanh ,Tả tác bách xích đôi Tỏa ra một đống cao hàng trăm thước ,Yêu kiều thuỳ thiên long Ngoằn nghèo như con rồng trên trời sa
xuống ,Cương phong
xuy bất khai Gió
mạnh thổi cũng không tan .Ông còn miêu tả khá chi tiết con tàu kinh dị này như : Nguy tường ngật lập, ngũ lạng
tĩnh Cột tàu cao chót vót,
con quay gió đứng im , Tu
đồng trung trĩ, phún tác yên tối ngôi Ở giữa có ống khói phun khói ra
ngùn ngụt , Hạ hữu song
luân triển chuyển đạp cấp lãng Bên dưới có hai chiếc guồng xoay
chuyển liên hồi đạp sóng dồn , Luân phiên lãng phá, ẩn kỳ sinh nộ lôi Guồng quay, sóng
đánh tung toé ầm ầm như tiếng sấm rền ,Hữu
thời hoành hành,đảo tẩu tật bôn mã Có lúc đi ngang chạy ngược như ngựa phi,Vô phàm,vô lỗ vô nhân thôi Không buồm
không chèo cũng không người đẩy ,Long nha Xích khảm bách lý ngoại Từ
những đảo Nanh Rồng,Đá Đỏ xa hàng trăm dặm,Đàn
chỉ tảo khước kinh lan hồi Chỉ búng ngón tay đã vượt qua những đợt sóng
kinh người
Càng đi xa,Cao Bá Quát càng thấy rõ nhiều vấn đề và điều thu hoạch
thứ hai của Cao Bá Quát, là ông gần như phủ nhận thứ văn học nhà nho mà người ta đã nhồi vào
đầu ông từ lúc còn đi học.Sau khi đi Batavia về,mấy năm sau, ở Ðà Nẵng, ông
viết một bài thơ dài tâm sự với bạn trong đó có câu :
Tự tùng phiếm hải
lịch ba sơn (tức Batavia)
Thủy giác lục hợp hà mang mang
Hướng tích văn chương đẳng nhi hí
Thế gian thùy thị chân nam tử
Uổng cái bình sinh đọc thư sử
Thủy giác lục hợp hà mang mang
Hướng tích văn chương đẳng nhi hí
Thế gian thùy thị chân nam tử
Uổng cái bình sinh đọc thư sử
Ðại ý là: Từ chuyến đi
thuyền trên biển sang tới Batavia, thì mới hiểu rằng trong cõi trần này rất
rộng lớn và thấy rằng những chuyện văn chương mà tôi học được từ xưa, đều là
chuyện trò chơi con trẻ cả. Và ông ấy ước rằng: Nếu trong thế gian này, có
người nào là chân nam tử tức là người có bản lĩnh thật sự, thì mong người đó
đừng uổng công, cái công bình sinh đời Cao Bá Quát đã bỏ ra rất nhiều năm để
đọc thơ và đọc sử.
Một nhà nho phủ nhận cái vốn liếng văn hóa cổ
truyền! Lúc đó, ông đã khám phá ra, nó là một cái gì vụn vặt và sáo hủ, mà nhà
nho đứng trong thời đại đó, có lẽ nên quẳng đi để đương đầu với những vấn đề
mới của đất nước. Câu chuyện Cao Bá Quát có lẽ gây cho ta nhiều cảm xúc khi đọc Mahan vào lúc này,dù chậm hơn một thế kỷ ,nhưng muộn còn hơn không và việc nhà xuất bản Trí Thức cho ra đời bản dịch cuốn sách trong tủ sách Tinh Hoa vào năm 2012 là một việc làm đáng hoan nghênh .Khi Mahan công bố lý thuyết Sức Mạnh trên Biển là đã đóng góp lớn lao cho cuộc toàn cầu hóa lần thứ nhất:chủ nghĩa đế quốc toàn cầu ,nhiều dân tộc bị áp bức nô lệ,thực dân vơ vét tài nguyên.Nỗi đau mất nước của dân tộc ta cũng là nỗi đau từ biển cả đại dương.Ba năm sau khi Cao Bá Quát từ trần,tháng Tám năm 1858,liên quân Pháp-Tây Ban Nha tấn công cảng Đà Nẵng mở đầu một thời kỳ Pháp thuộc.Tháng Chín năm 1940 ,Nhật tiến vào Đông Dương,vào cảng Hải Phòng từ đảo Hải Nam.Năm 1964,quân viễn chinh Mỹ đổ bộ vào cảng Đà Nẵng sau nhiều năm tham gia chiến tranh bằng cách cố vấn viện trợ!Đọc Mahan vào lúc này,khi thế giới đang trong giai đoạn toàn cầu hóa lần thứ hai,chủ quyền trên biển của đất nước đang bị đe dọa nghiêm trọng,nhiều vấn đề "dân sinh,dân khí,dân trí" vẫn còn nguyên vẹn như cách đây 100 năm khiến cho chúng ta không khỏ đau lòng.Bỏ qua mọi mặc cảm ,kiêu ngạo vốn có đối với một lý thuyết "phản động,thực dân,bênh vự cho chủ nghĩa đế quốc",chúng ta cần có thài độ khoa học phê phán khi nghiên cứu Mahan,một trước tác đã được loài người đón nhận hồ hởi trong tinh thần phê phán suốt một thế kỷ qua1/Để đọc cuốn sách,chúng tôi có đường dẫn giúp các bạn tới bốn phiên bản Anh,Nga,Trung,Việt file pdf :
-bản tiếng Anh do nhà xuất bản Boston Little Brown and Company ấn hành lần thứ 12 ,ghi rõ giữ bản quyền nằm 1890 bới A.T.Mahan và 1918 bời Ellen Lyle Mahan.Bản này xuất bản pdf free download trên mạng,tại đây
-bản tiếng Nga Мэхэн А.Т. Влияние морской силы на историю 1660-1783. nhà xuất bản Terra Fantastica và Военная Литература xuất bản 2002.Bản này do viên sĩ quan-nhà sử học Hải quân Nga hoàng tên là N.P. Azbelev (Н.П. Азбелев) dịch năm 1895,được giáo sư,nhà sử học Hải quân Nga Dotsenko V.D. (ДОЦЕНКО Виталий Дмитриевич) xem lại,viết lời mở đầu và lời bạt ,cả hai được sử dụng trong bản tiếng Việt,cũng giúp cho người đọc Việt hiểu hơn về Mahan,xin bấm vào đây
-bản tiếng Trung 《海权对历史的影响》tức "Hải quyền đối lịch sử đích ảnh hưởng" của tác giả Mahan mà tiếng Trung gọi là Mã Hán (tên đầy đủ là 阿尔弗雷德·赛耶·马汉) do nhà xuất bản Quân Giải Phóng " 解放军出版社" xuất bản năm 2006.Bản dịch do hai dịch giả Bản tiếng An Changrong (An Thường Dung) và Cheng Zhongqin (Thành Trung Cần) tức 安常容 và 成忠勤 cùng dịch ,xuất bản lần đầu vào ngày 23/04/1996 .Trong lời nói đầu ,nhà xuất bản có nói rõ :đây là thành tựu không phải chỉ để hải quân mà toàn quân phải học tập! Bản pdf công khai free trên mạng,xin bấm vào đây
-bản tiếng Việt do Phạm Nguyên Trường dịch,Nhà xuất bản Trí Thức ấn hành lần đầu 500 cuốn vào 2012,lần hai 500 cuốn vào năm 2013 .Chúng tôi scan và đưa lên mạng những bài của V.D. Dotsenko và 3 trang Lời nói đầu,27 trang Dẫn nhập,71 trang chương 1-Những thành tố của sức mạnh trên biển .Có lẽ đó là những phần hấp dẫn lý thú nhất trong toàn bộ hơn 650 trang của bản tiếng Việt vì 13 chương còn lại là những nghiên cứu lịch sử hải quân 1660-1783 để minh họa cho các luận điểm mà tác giả đưa ra tại chương 1 với nhiều kiến thức về hải chiến thế kỷ 17,18 làm nặng đầu những người dọc không cần nghiên cứu quá tỷ mỉ các trận đánh xa xưa.Việc scan này là xuất phát từ nhu cầu bản thân ,thường đọc văn bản trên máy tính bảng hay Kindle ,nhẹ nhàng mang theo người thay vì một quyển sách đồ sộ và đưa lên mạng mong phổ biến được cho mọi người.Tất nhiên ,việc này chưa xin phép nhà xuất bản mà tại trang lót,nhà xuất bản có nhắc tới bản quyền và vi phâm pháp luật.Vả lại,chúng ta biết rằng với sinh viên nước ngoài,mà bản thân người viết này cũng có dịp là học trò,việc photo cho phép một số trang chứ không phải toàn bộ cũng là một việc được phép !
2/ Những chiến thuyền trước thế kỷ 20 được Mahan nhắc tới là thuyền galley,tàu chiến tuyến ,tàu frigate.Để hiểu được những điều Mahan bình luận,ta cần tìm hiểu qua những đặc điểm của ba loại tàu này :
2.1 thuyền galley -trước đây trong nhiều văn bản tiếng Việt gọi là ga-le theo tiếng Pháp là galere ,trong khi
Galley thời trung thế kỷ |
2.2 tàu chiền tuyến ,trong bản dịch Mahan tiếng Việt gọi là thuyền chiến ,không lột tả được nội dung sự
Đuôi tàu Victory trong ụ ,ảnh chụp năm 2007 |
Mặt cắt tàu chiến tuyến ba boong 1-kho đạn; 2-khi giữ thuốc súng và đạn tín hiệu;3-các dự trữ ;4- đường nước; 5-đạn bắn ra;6-đại bác có dây chằng ;7-boong trên |
2.3-tàu frigate mà trong bản dịch Việt gọi là tàu khu trục,không phản ảnh đúng nội dung của Mahan .Tàu frigate ( frigate; 巡防舰 ; Фрегат) là một loại tàu chiến mà ý nghĩa của tên gọi thay đổi theo thời gian.Trong kỷ nguyên buồm,đó là những chiến thuyền ba cột buồm .Thế Chiến II,những tàu frigate chính là các tàu khu trục hộ tống (Destroyer Escort) ,những tàu quét lôi nhỏ,trang bị vũ khí nhẹ,tốc độ tương đối chậm,đi hộ tống các đoàn vận tải.
Vào
thế kỷ 17, từ frigate được sử dụng để chỉ mọi tàu chiến được chế tạo nhằm đạt tốc
độ và có tính cơ động cao, nên các tàu
có tính năng như vậy thường được mô tả là "được chế tạo như frigate".
Chúng có thể là những tàu chiến mang dàn pháo chính là pháo gắn trên bệ bố trí
trên một boong duy nhất hoặc trên
hai boong tàu (với những khẩu pháo trên bệ nhỏ hơn bố trí trên boong trước và boong
sau con tàu). Frigate được dùng chung để chỉ những con tàu quá nhỏ không thể
đứng trong dàn hàng chiến trận (line-of-battle), mặc dù các tàu chiến tuyến ban
đầu thường được xem là tàu frigate do chúng được chế tạo để có tốc độ nhanh.
Tàu frigate mang tên Constitution của Mỹ hiện nay như một tàu bảo tàng tại Boston |
Sang thế kỷ 18 , từ ngữ này được dùng để
chỉ những con tàu thường dài ngang với tàu chiến tuyến, có cáccánh buồm vuông
(square-rigged) trên cả ba cột
buồm, nhưng nhanh hơn và trang bị vũ khí nhẹ hơn, sử dụng trong nhiệm vụ tuần
tra và hộ tống. Trong một quy định của Bộ Hải quân Anh,tàu frigate là những tàu
được xếp hạng có ít nhất 28 khẩu
pháo, mang dàn vũ khí chính trên một boong liên tục duy nhất là boong trên,
trong khi tàu chiến tuyến thường có hai hoặc nhiều hơn các boong liên tục mang
các dàn pháo.Bắt đầu vào khoảng năm 1858 Hải quân Anh và Pháp bắt đầu chế tạo tàu frigate bọc thép (armoured frigate) là một kiểu tàu
chiến bọc sắt đầu tiên,trong một thời gian dài là kiểu tàu chiến trên mặt nước
mạnh mẻ nhất. Thuật ngữ "frigate" được sử dụng vì kiểu tàu này tiếp
tục mang dàn hỏa lực chính trên boong trên duy nhất và chạy liên tục duy .
Những chiếc thiết giáp hạm (battleship) cuối thế kỷ 19 được phát triển từ những
tàu frigate bọc thép hơn là từ những tàu chiến tuyến .
Trong
hải quân hiện đại, tàu frigate được sử dụng để bảo vệ các tàu chiến khác và các
tàu buôn, đặc biệt là như những tàu chống ngầm cho những lực lượng đổ bộ viễn chinh,
các đội tiếp liệu dọc đường, và các đoàn vận tải,cho nên đôi khi người ta coi
tàu frigate là tàu hộ tống. Nhưng những lớp tàu được gọi tên là
"frigate" đồng thời cũng rất giống với tàu corvette (tàu hộ tống nhỏ),tàu khu trục
(destroyer),tàu tuần dương (cruiser), và thậm chí là với cả thiết giáp hạm
(battleship).
Gần
đây Hải quân Nga đã chính thức xếp hạng tàu có lớp tàu frigate thay cho các
cách gọi tàu hộ tống…trước đây
3/Lý thuyết về buồm
Để hiểu các trận hải chiến dùng thuyền buồm,ta cần hiểu về buồm.Chúng tôi sẽ trình bày trong bài 2