Bài đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần 18/01/2015 và bản thảo ban đầu
MÔ
HÌNH NÀO CHO MỘT BẢO TÀNG HÀNG HẢI VIỆT NAM ?
Thật vô cùng thiếu sót ,là một quốc gia biển mà cho
tới nay chúng ta chưa có một bảo tàng hàng hải đúng nghĩa…Ý kiến này đã được
nhiều nhà nghiên cứu nêu ra như tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn từ Đà Nẵng hay các nhà
dân tộc học như Đặng Nghiêm Vạn,Ngô Đức Thịnh,Nguyễn Duy Thiệu …từ Hà Nội.Không
chỉ có giới nghiên cứu trong nước,nhiều các nhà dân tộc học nước ngoài đã nêu
ra vấn đề này,trong đó đáng chú y nhất là hai người Mỹ “mê thuyền Việt” –như chữ
của báo Tuổi Trẻ đã viết về những người bạn này trên số báo 1/10/2005 .Trong một
bức thư gần đây,Ken Preston viết :” Tôi
nghĩ đã tới lúc phải có một Bảo tàng Hàng hải Quốc gia của Việt Nam,có thể giống
như Bảo tàng Mystic tại Mỹ nhưng toàn bộ chỉ nói về lịch sử hàng hải Việt Nam
.Tôi hình dung ra trên mặt nước sẽ trưng bày sống động các thuyền buồm và thuyền
chèo đủ mọi cỡ loại ,có một xưởng đóng thuyền theo kiểu truyền thống đang hoạt
động …Tất cả để cho người Việt Nam có thể tự hào về nó và những người ngoại quốc
có thể học tập từ đó “
1/Mô
hình nào cho một bảo tàng hàng hải ?
Mặc dù chưa có một bảo tàng hàng hải hoàn chỉnh
nhưng rải rác trên khắp đất nước ta có những bảo tàng với “yếu tố hàng hải” như
Bảo tàng Hải quân Hải Phòng,Bảo tàng Sinh vật biển của Viện Hải dương học Nha
Trang,bảo tàng của các lãnh tụ có cuộc đời hoạt động gắn với tàu thuyền như Bảo tàng Hồ Chí Minh,Tôn Đức Thắng
,kho đồ cổ từ các cuộc khai quật dưới nước của Bảo tàng Lịch sử,bảo tàng Cù Lao
Chàm,bảo tàng Quang Trung huyện Tây Sơn Bình Định,bảo tàng trận Rạch Gầm-Xoài
Mút Mỹ Tho,bảo tàng tư nhân tại Phú Quốc,nhà trưng bày tại Hội An…Trên thế giới,theo
thống kê hiện nay có khoảng vài nghìn bảo tàng hàng hải và người ta vẫn tiếp tục
xây mới các bảo tàng chuyên đề này.Ví như Trung Quốc ,ngoài bảo tàng thuyền nổi
tiếng tại Tuyền Châu,một hệ thống các bảo tàng chuyên đề về Trịnh Hòa, bảo tàng
hải quân Thanh Đảo,bảo tàng trên hai mẫu hạm to lớn mua lại của Nga tại Thiên
Tân và Thâm Quyến ,người ta vừa hoàn chỉnh Bảo tàng Hàng hải Quốc gia khổng lồ
tại Thượng Hải ,trong khi Thiên Tân lại đang có dự án bảo tàng hàng hải lớn hơn
nhằm cổ vũ “tinh thần biển” cho một nước Trung Hoa đang bành trướng trên đại
dương !Về mặt tổ chức,các bảo tàng hết sức đa dạng .Có thể đó là nơi lưu trữ bản
gốc của các di vật hàng hải ,các bản vẽ,hải đồ,các chi tiết của con tàu ,những
cuốn sách cổ …như bảo tàng Greenwich Luân Đôn dẫn đầu với trên 2 triệu hiện vật.Có
bảo tàng lấy trung tâm là một hay nhiều
con tàu cổ đi kèm theo nơi lưu trữ các di vật hàng hải.Nhưng phổ biến nhất hiện
nay là những bảo tàng “sống” ,giúp cho khách tham quan sống thật với môi trường
hàng hải lịch sử,với những chiếc thuyền buồm cổ xưa ,được “tương tác” qua các
thiết bị công nghệ số hay các vật thật để trải nghiệm bão tố ,đọc các tấm hải đồ,cùng
say sóng với con tàu …bên cạnh việc xem các hiện vật ,nghe lời thuyết minh có
thể đôi lúc thấy nhàm chán .Bảo tàng Mystic bên bờ Đại Tây Dương mà Ken nêu ra
là một ví dụ cho một bảo tàng “sống” như vậy ,với các con tàu cột buồm cao vút
thuộc nhiều thời đại dẫn dắt khách tham quan trở về “Kỷ nguyên Vàng của Buồm”,khi
các cánh buồm nó gió tung bay khắp các đại dương.Giản dị hơn Mystic là bảo tàng
hàng hải của San Francisco ,dựa trên nền tảng của một cảng cá xưa cũ nay không
còn sử dụng.Tòa nhà lớn dùng để lưu trữ
các hiện vật,giống như mọi bảo tàng hàng hải khác .Dọc theo đường ra cầu
tàu là một loạt hàng quán bán lưu niệm,các cửa hàng ăn uống mang phong cách biển
,trang trí các cờ đen của hải tặc ,những “Đảo dấu vàng” theo tiểu thuyết của
nhà văn Stevenson hay “Robinson” một mình trên hoang đảo.Khi sắp tới bến tàu là
một xưởng đóng thuyền hoàn toàn theo phong cách cổ xưa với các cách ghép gỗ,bào
mộng thủ công .Bên cạnh các cọc buộc thuyền là những cột thi đố buộc các nút
dây quen thuộc dùng trong hàng hải như nút dẹt,nút thuyền chài…Và những con
thuyền đón khách là các con thuyền lịch sử quen thuộc với người dân ven bờ Thái
Bình Dương để đánh bắt cá tới tận Alaska hay đưa các di dân tới vùng Tây nước Mỹ
này trong các cơn sốt đào vàng vào năm 49 của thế kỷ 19.
Hình 1-Dựng buồm
trên chiếc mảng Sầm Sơn để thực hiện chuyến viễn du 5500 dặm vượt Thái Bình
Dương sang Mỹ năm 1993[1].Giúp
cho nhà du lịch Tim Severin chỉ huy công việc này là Nick Burningham (râu
quai nón,đứng dưới cột buồm),một chuyên gia về tàu thuyền cổ đến từ Úc.Sau
chuyến làm mảng Sầm Sơn,Nick làm cố vấn cho bảo tàng thuyền Tuyền Châu Trung
Quốc
|
2/Một
hội thảo mini tại Hội An
Mong mỏi của Ken về một bảo tàng hàng hải đã dẫn tới
một cuộc hội thảo mini tại Hội An vào trung tuần tháng Chạp vừa rồi.Biết tin
Ken đang rong ruổi xe máy từ Trà Cổ tiến dần về miền Trung, Đỗ Nguyên Ái mê
thuyền buồm từ Sài Gòn đề nghị anh em kéo ra Hội An đón Ken .Cuộc gặp mặt có
dân ghe thuyền Hội An,những người chơi thuyền từ Đà Nẵng,có Trung tâm Bảo tồn
Di sản ,có cả giàng viên và sinh viên Khoa Đóng tàu từ Đại học Đà Nẵng và được
tổ chức tại hội trường Đại học Phan Châu Trinh .Vượt chặng đường từ Huế vào bằng
chiếc xe máy LiFan Trung Quốc,Ken kể lại anh vừa trọ tại nhà một cựu chiến bình
năm 1971 đã chiến đấu tại vùng Biên Hòa.Đó cũng là năm Ken được đưa tới Biên
Hòa ,và ở tại đó hai năm .Hiện nay,anh sống tại đảo Bainbridge ,cách trung tâm
Seattle –thành phố quen thuộc với chúng ta nhờ đó là trung tâm của hãng máy bay
Boeing và phần mềm Microsoft-bằng một chuyến tàu phà kéo dài hơn một giờ.Từ hơn
mười năm nay,anh thường xuyên đi du lịch Việt Nam và hai nước láng giềng ,mọi
việc được ghi chép trên blog “Thuyền và Cơm”
(boatsandrice) và những cuốn sách ảnh tỉ mỉ về các con thuyền dọc theo bờ
biển nước ta.Đến nay,người nước ngoài tìm hiểu văn hóa và sinh sống trên đất nước
ta đã là chuyện bình thường,tới nhóm nhạc
“Ngũ cung và cây đàn đá “ cũng có một “ông Tây” là David Peyen ,nhưng gần hai
chục năm trước,một kẻ “lạ mặt”,rây ria xồm xoàm ,phóng xe máy tới các làng
chài,giương máy ảnh ,nhẩy lên chèo thuyền thúng là một hành động “đáng ngờ” với
nhiều cơ quan chức năng.Ken còn là người biên tập bản tiếng Anh của cuốn sách
“Thuyền buồm ở Đông Dương” ,một cuốn sách kinh điển về tàuthuyền Việt Nam do một
ông Chánh Kiểm ngư người Pháp ,tên là J.B.Pietri ,xuất thân từ một hoa tiêu
trên sông Sài Gòn ,đã xuất bản vào năm 1943[2]
.Công việc của Ken tiếp nối người đi trước của anh,ông John Doney người khởi xướng
lập một “Quỹ Di sản Thuyền bè Việt Nam” .John Doney đã mất vào năm 2009 do một
tai nạn xe hơi ,nhưng những hiện vật mà ông đem về từ Việt Nam như những chiếc
thúng chài,chiếc “nốc” Huế được “khâu” từ năm tấm ván vẫn được lưu giữ tại một
Trung tâm ở Cảng Townsend phía Tây Bắc của Seattle.
Hình 2-Ken
Preston giữa những ngư dân miền Trung .Anh đến với họ bằng chiếc xe máy và một
nụ cười ,cùng “năm trăm từ tiếng Việt” mà anh thú nhận .Nhưng thực ra ,anh biết
hơn nhiều !
|
3/Những
bước đi thực tế ?
Đề xuất xây dựng mới một bảo tàng,chắc
chắn gặp phải nhiều ý kiến lo ngại.Chẳng phải chúng ta đã có Bảo tàng Hà Nội khổng
lồ mà chẳng biết bày cái gì hay hệ thống bảo tàng của chúng ta hiện nay công suất
sử dụng rất thấp ,trừ một vài bảo tàng đã mạnh dạn đổi mới như bảo tàng dân tộc
học,bảo tàng Phụ nữ Hà nội…Về mặt quan điểm,chúng ta cần làm cho toàn xã hội thấy
sự cần thiết phải có bảo tàng hàng hải nhằm nâng cao “tinh thần biển” của toàn
dân tộc nhưng có lẽ cần có những bước đi hết sức thiết thực
Trước hết,các bảo tàng có gắn với hàng
hải ,các cơ quan ,công ty hàng hải cần cố gằng lưu giữ những gì còn lại như Bảo
tàng Hải quân giữ con tàu không số nguyên vẹn còn sót lại hay những mảnh còn đắm chìm tại Cà Mâu,Vũng Rô,Bảo tàng lịch
sử với con tàu tăng-kích 174 còn nằm gửi tại Ninh Bình …Thật đáng tiếc,khi tìm hiểu về các chuyến tàu Bắc Nam
ngày thống nhất,chúng tôi điện hỏi đại phó Nguyễn Bá Trí đã về hưu tại Thanh
Hóa ,anh cũng không biết Công ty đã vứt cuốn Nhật ký của tàu Thông Nhất vào lúc
nào !
Việc nghiên cứu lịch sử hàng hải dân tộc
hiện nay có thể nói chưa đáng là bao.Nếu chỉ một đường thêu của chiếc váy Mường
đã là đề tài cho nhà dân tộc học Nguyễn Đổng Chi theo đuổi trong nhiều năm thì biết
bao chi tiết hàng hải từ con mắt thuyền,chiếc “ngà”,chiếc “mõ” ,bao nhiêu loại
thuyền …xứng đáng để chúng ta ghi chép,nghiên cứu,đối chiếu với các dân tộc
khác ,để tạo nên một đội ngũ các nhà dân tộc học hàng hải thời hiện đại.Trong
cuộc hội thảo mini tại Hội An vừa rồi,giảng viên Nguyễn Tiến Thừa từ Đại học Đà
Nẵng đã có đề xuất khá hay “Trong khi chúng ta chưa đóng lại các con thuyền cổ
xưa thì việc vẽ lại theo lời kể,theo một số vật mẫu còn sót lại ,theo một số
con thuyền còn đang dùng , bằng các công cụ thiết kế tàu với các bản vẽ tuyến
hình,kết cấu …bằng các phần mềm hiện đại là cần
thiết để tạo ra một thư viện “ảo”là hết sức cần thiết để chúng ta có thể
chế tạo lại khi có điều kiện “Và nhóm thày trò này đã bắt tay vào một việc đầu
tiên :vẽ lại chiếc ghe nang trước khi chiếc ghe này được đưa về bảo tàng Cù Lao
Chàm .
Cuối cùng thì việc chọn địa điểm cho một
bảo tàng hàng hải cũng phải đặt ra .Một bến cảng xưa cũ không còn sử dụng ư ?
Trên đất nước ta thiếu gì những cảng cá đầu tư vài chục tỷ đồng không sử dụng
được,nhưng lại ở xa các khu dân cư còn khu vực nhà máy Ba Son hay khu Tân Cảng
đã giải tỏa ở vào nơi đô thị sầm uất ,rất
thích hợp cho một quần thể “Công viên Hàng hải “ có ích cho cộng đồng nhưng lại
đã có chủ với những dự án đô thị hấp dẫn.Vậy chúng ta trông chờ vào những dự án
bến cảng du thuyền,các marina mà các ông chủ đang cho mọc lên dọc ven biển,ven
cửa sông lớn . Vào một ngày đẹp trời nào đó,các đại gia không chỉ ngắm nhìn các
mô hình thuyền buồm hay bức tranh buồm no gió trong phòng khách sang trọng với
dòng chữ “Nhất phàn phong thuận”phù hộ cho làm ăn khấm khá như thuyền được gió
mà gắn các công trình bến cảng này với một bảo tàng hàng hải ?Còn đầu tư hoàn
toàn bằng ngân quỹ quốc gia –mong ước là như vậy- có lẽ cũng khá khó khăn khi
tiền của đã đổ nhiều xuống sông xuống biển theo các dự án Vinashin,Vinalines
trong khi yêu cầu nâng cao “tinh thần biển” cho dân tộc luôn là một yêu cầu cấp
bách .
[1]
Xem “Be tre Việt Nam du ký vượt 5500 dặm Thái Bình Dương” bản dịch tiếng Việt của
Đỗ Thái Bình và Vũ Diệu Linh từ cuốn du ký của Tim Severin ,XB Trẻ ấn hành 2014
[2] Cuốn
sách “Voiliers d’Indochine” do J.B Pietri vẽ và viết ,nhà xuất bản SILI tại Sài
Gòn ấn hành năm 1943 và 1949.Bản tiếng Việt do Đỗ Thái Bình thực hiện từ bản tiếng
Pháp và tiếng Anh,XB Trẻ ấn hành dự kiến ra mắt 03/2015