Một tàu buồm của Hải quân Anh thế kỷ 19 ,điển hình với buồm Bermuda. Các cột nghiêng về sau |
Buồm
Trong hệ thống dọc có các loại buồm sau đây :
- staysail
- Bermuda
- gaff
- gunter
- la tinh (lateen)
- lugsail
- spanker sail ...
staysail được tô màu đỏ |
/headsails /foresails với nhiều jib khác nhau như jib,flying jib,outer jib...Người Trung Quốc dịch cái buồm này là 支索帆/牵帆 (zhīsuǒ fān /qiān fān Hán Việt là chi tác phàm/khiên phàm tức là buồm được buộc bằng dây to hay buồm được dẫn buộc ) .Vậy,tiếng Việt ta nên gọi là buồm dây tam giác chăng?
-Bermuda sail (Ba Lan -Żagiel bermudzki ; Nga -
Бермудский парус ; Trung -百慕大帆 (bǎimùdà fān ) .Các nước
Buồm Bermuda |
Buồm gunter |
Buồm gaff |
- Dây kéo góc cuối sát với cột buồm ,góc đó có tên là throat nên dây gọi là throat halyard.Dây này chịu trọng lượng chính của buồm và độ căng của cạnh sát với cột buồm (luff)
- Dây nâng đầu cuối thanh gaff và chịu độ căng của mép sau của cánh buồm (leech)
Buồm la tinh |
-Buồm la tinh (lateen sail; Ba Lan Żagiel łaciński; Nga - треугольный парус;Trung-三角帆) Tên buồm trong tiếng Anh lại bắt nguồn từ tiếng Pháp :latine ,trong khi người Anh gọi là Latin .Đó là một buồm tam giác treo trên một cái xà dài ,lắp trên cột và nghiêng với cột một góc .Trong các cuộc hải hành của người La Mã,buồm la tinh được sử dụng nhiều ,nhất là trong Thời đại Khám phá (Age of Discovery),chủ yếu vì buồm này cho phép con thuyền có thể chạy ngược gió .Buồm phổ biến trong vùng Địa Trung Hải,thượng nguồn sông Nile ,vùng Tây Bắc Ấn Độ Dương ,tại đây buồm la tinh đã trở thành buồm tiêu chuẩn của các chiếc thuyền felucca và dhow.Ngày nay,buồm la tinh được dùng trên các thuyền chơi loại nhỏ như sailfish hay Sunfish và vẫn phổ biến trên các tàu thuyền của ngư dân Địa Trung Hải .
Buồm lug |
Thuyền mang buồm lug được gọi là lugger (Nga-Люгер ; Ba Lan -Lugier; Pháp -lougre) là một loại thuyền đánh cá truyền thống được sử dụng lâu đời tại ven bờ Pháp, Anh và Scotland.Có thể nói buồm lug là loại buồm dọc cổ xưa nhất .Nguồn gốc cái tên đó,cho tới nay,chưa có một giải thích nào được coi là xác đáng nhất . Có người cho là 'lugger' biến thể từ tiếng Hà Lan thời Trung thế kỷ có nghĩa là đi đánh cá .Có người lại giải thích từ hình dáng buồm giống cái tai của con người .Trong tiếng Pháp,hệ buồm dọc được gọi là un gréement aurique ,còn buồm là une voile aurique - tức là buồm hình cái tai . Vì vậy 'lug' là một từ trong tiếng Anh có nghĩa là cái tai .
-Spanker sail ( Ba Lan -Żagiel bezan ; Nga -Биза́нь; Pháp - brigantine ;Trung - 后桅纵帆 (buồm dọc cột sau ) Chú ý tên gọi từ các nước khác nhau không hoàn toàn tương đồng với nhau
một cột buồm :proa,catboat (6) ,sloop (1) ,cutter(3)
tàu hai cột buồm :ketch (2) ,yawl (5);
tàu hai cột buồm và nhiều hơn :schooner (4 )
Barque và barquentine chủ yếu treo buồm vuông và có một ít buồm dọc.
Lịch sử phát triển buồm dọc tại châu Âu cũng có nhiều điều ích lợi cho chúng ta .Đó là vài thế kỷ trước thời kỳ Phục Hưng,tại Ý và Nam châu Âu ven bờ Địa Trung Hải ,người ta bắt đầu dùng buồm dọc thay cho buồm vuông ,một loại buồm thống trị toàn châu Âu từ buổi bình minh của các cuộc lữ hành trên biển .Giữ thái độ thủ cựu,các nước Bắc Âu từ chối việc áp dụng buồm dọc mặc dù trong các cuộc Thập Tự Chinh người ta đã thấy hiệu quả to lớn của những cánh buồm này .Thời kỳ Phục Hưng (Renaissance ) đã làm thay đổi tình thế :bắt đầu từ năm 1475 ,buồm dọc ngày càng được áp dụng và trong vòng một trăm năm nó đã trở thành phổ biến trên tất cả các sông ngòi và các cửa biển ở Anh,phía Bắc nước Pháp ...mặc dù buồm vuông vẫn được coi là phương tiện tiêu chuẩn cho những nơi điều kiện khắc nghiệt như vùng Biển Bắc hay sử dụng cho những chuyến vượt Đại Tây Dương .Rõ ràng là buồm la tinh có tính quay trở cao và giành tốc độ cao nhưng buồm vuông tuy "vụng về " nhưng lại có tính hàng hải tốt !
Một dạng treo buồm dọc với cánh buồm có đặc điểm : những thanh thép buồm chia buồm làm nhiều phần giúp cho việc thu hoặc căng buồm một cách dễ dàng .Loại hình này phổ biến tại Trung Hoa và các nước ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa như Việt Nam,Triều Tiên,Nhật ...Trong ngôn ngữ hàng hải thế giới nó có tên là Junk rig ,tạm gọi là buồm mành , với chữ junk ,xét về từ nguyên ,người ta cho là bắt nguồn từ chữ Hán 船 phát âm theo vùng miền Nam Trung Quốc như Phúc Kiến,Quảng Đông ...Chúng tôi sẽ giành một mục riêng để khảo cứu về buồm mành mà chính người Việt cũng là một tác giả với đầy đủ các chứng cứ lịch sử
Có một chi tiết lịch sử.Sau chiến thắng Biên Giới,Việt Nam đã cử 100 thủy binh Sông Lô sang Điều Thuận Trạm Giang Trung Quốc để học kinh nghiệm của Giải Phóng Quân TQ dùng thuyền buồm tấn công đảo Hải Nam,đuồi tàn quân Tưởng Giới Thạch khỏi hòn đảo này .Hỏi chuyện một số cựu thủy binh Sông Lô còn sống tại Hà Nội,trong đó có thiếu tường Nguyễn Việt (nguyên cán bộ Bộ Tổng Tham Mưu ) và đại tá Phú Đạt (nguyên cán bộ địch vận,người đã hỏi cung nhiều phi công Mỹ) được biết là nhiều anh em ta giỏi kỹ thuật thuyền buồm hơn cả các thày hướng dẫn.Trong đó nổi bật là Đàm Nam Hải người Thủy Nguyên Hải Phòng và Bùi Nguyên quê Yên Bái .Đáng tiếc là trong cuộc thực tập vào tháng 11/1950,chiếc thuyền thực tập gặp sự cố khi đang đi gần tới đảo Não Châu ,nơi có cây đèn biển mà thực dân Pháp dựng lên cùng lúc với các đèn Long Châu ,Hòn Dấu .Hai anh hy sinh và được chôn cất ngay tại Điều Thuận .Vào năm 2009 ,chính hai vợ chồng tôi tới đã Điều Thuận để thăm nhưng chưa tìm ra mộ hai anh
Schooner
Vì schooner là loại thuyền buồm dọc lớn nhất ,nên tôi để giành một mục riêng khảo sát về nó .Nên gọi nó là gì trong tiếng Việt đây ?Anh Mỹ gọi nó là schooner ,đọc là sku-nơ ,nhiều người cho là bắt nguồn từ chữ Hà Lan vào những năm 1600 ,trong khi người Pháp gọi nó là goélette .Trong tiếng Nga nó là Шху́на và cho là bắt nguồn từ chữ Hà Lan Schoener.Còn người Trung Quốc gọi nó là 双桅纵帆船 (shuāngwéi zōngfānchuán thuyền 2 cột buồm dọc ) hoặc thường gọi nhất là 斯库纳帆船 (đọc là sīkùnà fānchuán tức là thuyền buồm schooner ) .Từ kinh nghiệm Trung Quốc,với nền văn hóa tương đồng tốt nhất là chúng ta cứ gọi loại tàu này là schooner cho khỏe .Biết đâu có dịp schooner của Trung Quốc sẽ củng tập với barkentine của Việt Nam trên biển như đã cùng "tuần tra chung trên vịnh Bắc Bộ " .Cái barkentine mà ta có thể gọi tắt là bark ,còn tên đầy đủ trong tiếng Trung hơi dài dòng,đó là 前桅横帆三桅船 (qiánwéihéngfān sānwéichuán tức là tàu ba cột có cột trước buồm vuông)
Buồm được trang bị trên một schooner ba cột như hình vẽ sau đây :
Một chiếc schooner trên sông Hudson năm 1976 |
Buồm được trang bị trên một schooner ba cột như hình vẽ sau đây :
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét