Câu chuyện về tên gọi các cánh buồm ám ảnh tôi hàng chục năm nay .Chẳng là bắt tay vào biên soạn cuốn Từ điển Hàng hải Anh Việt ,tôi đã nhận thức được những cam go trước mắt .Đó là vào những năm 70,khi trên giá sách bắt đầu xuất hiện những cuốn tiểu thuyết dịch viết về biển ,mà tác giả đầu tiên đươc Hà Nội quan tâm là Jack London,một nhà văn thiên tả.Đọc các bản dịch ,người ta hoang mang không hiểu nội dung ra sao ,con người trước biển anh dũng thế nào .Chả là các khái niệm,ngôn ngữ hàng hải được truyền tải sai bét vì người dịch là dân trên bờ landlubber 100% ,lại dịch văn Anh thông qua tiếng Nga ! Mình vẫn nhớ cuốn nhật ký hàng hải logbook được dịch giả gọi là tạp chí hàng hải vì chuyển từ tiếng Nga sudovoj zhurnal mà không hiểu nó là cái gì .Đã là tạp chí thì còn có nghĩa lý gì với cuốn nhật ký hàng hải,một căn cứ luật pháp vô cùng quan trọng của con tàu !!Đến tên gọi các cánh buồm dự định cho vào Từ điển ,thật là một ma hồn trận mà cách duy nhất là để nguyên tên không dịch vì các từ Việt như buồm lòng,buồm cựu,buồm cánh kèo ...đều không đủ phản ảnh .Đối chiếu sang tiếng Hán để tìm cách đặt ra từ Hán Việt cũng bó tay vì càng thêm lằng nhằng .Buồm đã phức tạp tới các dây kéo buồm lại lũy thừa lên độ phức tạp .Dây lèo,dây chằng,dây lèo ngọn ...chả đủ cho một rừng dây trên tàu buồm .Cho nên,nghe tin vui về tàu buồm huấn luyện sắp về với biển Việt Nam ,mình mở trang này bàn luận về buồm với các bạn yêu biển ,những bạn đang tiếp xúc với halyard,grot ...Mình chỉ băn khoăn ,không rõ các khẩu lệnh trong khi thuyền trưởng Đàm Xuân Tuấn sử dụng trong khi thao tác buồm sẽ ra sao đây ?
Để hiều một cách tổng quát về hoạt động của tàu dùng buồm vuông không gì bằng mời các bạn xem clip sau đây về cách thao tác buồm trên tàu Sørlandet,một con tàu thuộc loại cổ xưa nhất ,được đóng tại Kristiansand, Na Uy vào năm 1927.Tiếp theo phần 1 là phần 2 và phần 3
phần 3
Khác với buồm của chúng ta là loại buồm được thế giới xếp vào loại buồm treo một phần ba (junk sail),buồm dọc ; buồm trên chiếc bark ,tàu huấn luyện của Hải quân Việt Nam thuộc loại buồm vuông,buồm chữ đinh (square sail) là loại buồm cổ xưa nhất của loài người .
Buồm đinh hình chữ nhật và được giữ bằng một xà ngang gọi là xà buồm (yard) ,xà này lại được gắn với cột buồm sao cho xà có thể xoay thoải mái cả trong mặt phẳng thẳng đứng lẫn mặt phẳng nằm ngang .Cột buồm,xà buồm và cánh buồm chữ đinh .Khác với buồm dọc (fore-and-aft sail ), buồm đinh luôn lấy gió từ cùng một mặt của cánh buồm .Buồm đinh tỏ ra tối ưu khi chạy thuận gió và nó trở nên không tốt khi chạy ngược gió như trình bày trên hình vẽ dưới đây . Cho nên buồm đinh chủ yếu chỉ dùng cho tàu thuyền chạy trong vùng nước sâu ,khi đó nó tỏ ra rất hiệu quả và chạy an toàn khi ngược gió .Và trong các chuyến hành trình dài ta phải luôn chọn một lộ trình sao cho càng phải ít chuyển lèo càng tốt . Mũi tên chỉ hướng gió và hình bên trái chỉ con đường của thuyền dùng buồm đinh ; ta có thể giữ hướng giữa gió và hành trình vào khoảng 70 độ .Hình bên phải chỉ hành trình của thuyền dùng buồm dọc ,góc đó chỉ 40 độ .Các loại tàu thuyền treo buồm vuôngCăn cứ theo cách troe buồm vuông ,người ta phân ra các loại tàu thuyền như sau :
Cột buồmCột buồm cao nhất của tàu là main mast,ta gọi là cột chình,cột buồm lòng .Cột trước cột chính (nếu có) được gọi là fore mast. ,cột mũi .Cột sau cột chính được gọi là mizzen mast, jigger mast, driver mast và pusher mast; mặc dù hai tên sau ít dùng ,còn ta gọi là cột đuôi nếu tàu chỉ có ba cột . Tuy vậy,trên các tàu năm cột ,người ta gọi tên như sau : fore mast, main mast, middle mast, mizzen mast, jigger mast. Trên chiếc tàu năm cột duy nhất ,tất cả treo buồm vuông có tên là Preussen, cột giữa middle mast đôi khi được gọi tên là cột Laeisz mast, theo tên của ông chủ tàu là F. Laeisz.Tại Hoa Kỳ,chữ spanker mast thường được dùng để chỉ cột buồm sau cùng của các loại schooners. Theo một bức thư của thuyền trưởng Crowley trên chiếc schooner bảy cột buồm Thomas W. Lawson ,họ thường gọi tên bảy cột như sau :fore-, main-, mizzen-, number 4, number 5, number 6, và spanker-.Trên tàu toàn bộ là buồm đinh ,mỗi cột gồm có ba phần là - cột dưới lower mast, cột đỉnh topmast, và cột ngọn topgallant mast. Bộ buồm gồm ít nhất ba chiếc buồm vuông đó là :buồm dưới course treo trên cột dưới , buồm đỉnh topsail treo trên cột đỉnh và buồm ngọn topgallant sail treo trên cột ngọn topgallant mast. Thông thường ,buồm đỉnh quá lớn nên được chia thành hai phần để dễ thao tác ,đó là buồm đỉnh dưới lower topsail và buồm đỉnh trên upper topsail; trên các tàu lớn ,buồm ngọn topgallant sail cũng được chia thành hai phần như vậy . Nhiều tàu lớn treo buồm vuông còn có thêm buồm đế vương royal nằm trên buồm ngọn ,được căng trên cột đế vương royal mast, thông thường không phải là một sào riêng mà là kéo dài của cột ngọn topgallant mast. Chúng ta để lại câu chuyện về buồm sẽ thảo luận tiếp theo ,tại đây chúng ta hãy bàn về các dây chằng cột buồm standing rigging : Hình vẽ cho ta thấy cột dưới lower mast nhìn từ mạn trái . Nó được giữ bằng một dây chằng dọc stay (màu xanh), tám dây néo shrouds (màu đỏ, ta chỉ thấy 4 dây néo trái ), và hai dây chằng ngang backstays (màu da cam, ta chỉ nhìn thấy dây chằng ngang phía trái ). Ngang dây néo có những dây lưới ratlines (đôi khi đọc thành ratlins) Cùng với dây néo,dây lưới tạo thành một cái lưới để trên đó ta có thể leo trèo lên cột buồm làm việc .Hình vẽ chỉ cho ta thấy một bên ,trên thực tế có cả hai bên để ta có thể trèo lên cột từ hai phái mạn của tàu . Bây giờ đến lúc cột đỉnh đã được lắp ghép xong . Nó được buộc vào mặt trước của cột dưới lower mast, và tại chỗ tiếp nối có một sàn nhỏ được gọi là top (màu xám). Cột đỉnh được đỡ bằng dây chằng dọc topmast stay(màu xanh) và dây néo topmast shrouds (màu đỏ) chạy từ đỉnh của cột đỉnh topmast cho tới mép ngoài của sàn nhỏ (top) .Những dây néo ngắn màu xanh lá cây được gọi là futtock shrouds đi từ mép ngoài của đỉnh rồi đi vào trong của cột dưới lower mast, tại đây nó được buộc bằng một cái vòng có tên là futtock bao quanh cột buồm . Có hai cặp dây chằng ngang của cột đỉnh topmast backstays (màu da cam). Một cặp buộc ngay tại chỗ của dây chằng cột đỉnh topmast stay, còn cặp kia níu từ tận đỉnh của cột đỉnh . Đến việc buộc cột ngọn topgallant mast . Trên thực tế cột ngọn và cột đế vương topgallant/royal mast chỉ làm bằng một cây sào mà thôi . Người ta dùng một thiết bị giống như cái top, nhưng nhỏ hơn được gọi là cây ngang crosstrees(màu xám). Dây chằng màu xanh da trời ở dưới là dây chằng cột ngọn topgallant stay còn dây chằng trên là dây chằng đế vương royal stay. Có một cặp dây chằng ngang cột ngọn topgallant backstays (màu da cam phía dưới ), và một cặp dây chằng ngang đế vương royal backstays (dây trên da cam ).Hai bên cũng có hai dây néo cột ngọn topgallant shrouds (đỏ) . Không có dây néo đế vương royal shrouds vì thường thấy không cần thiết . Tất nhien không phải tất cả các tàu buồm đều chằng buộc như mô tả ở trên ví dụ những tàu lớn thường có nhiều hơn hai cặp dây chằng ngang backstays để đỡ cột đỉnh topmast. Một số rất ít có cột đế vương royal masts riêng rẽ , và đến cuối thế kỷ 19 khi các cột làm bằng thép thì người ta thường làm cột dưới và cột đỉnh chung nhau với nhau , nhưng các dây chằng dọc stays,dây néo shrouds và dây chằng ngang backstays vẫn được buộc như khi các cột riêng rẽ như mô tả ở trên . Buồm
Trên buồm trăng moonsails, người ta cố tình nhét thêm buồm nữa ,có thể không thực hiện được nhưng vẫn còn những cái tên như : heaven poker, angel poker, và cloud disturber. Để tăng diện tích buồm tới mức tối đa , các clipper thường ghép thêm sào để kéo dài chiều dài xà buồm và treo thêm những cánh buồm phụ ở hai bên của buồm vuông . Những buồm đó có tên là buồm đầu đinh studding sails hay gọi tắt là stunsails, nhưng buồm này không còn được phổ biến trong thế kỷ 20 . Bức tranh phía bên mô tả chiếc clipper có tên là Golden State mang thêm 5 chiếc buồm đầu đinh trên cột mũi ! Trên các dây chằng dọc giữ các cột buồm (màu xanh da trời như các sơ đồ trình bày ở trên )người ta thường treo thêm các buồm phụ tam giác có tên là buồm dây chằng triangularstay sails. Tên của buồm tùy theo tên của dây chằng mà buồm được gắn vào , ví dụ buồm trên dây chằng cột đỉnh topmast stay có tên là topmast staysail. Trước cột mũi,người ta thường treo thêm nhiều buồm dây chằng staysails ,nhằm cân bằng con tàu và những buồm đó gọi là jibs. Dười đây là các tấm buồm của chiếc barque bốn cột buồm có tên là Pamir . Nhớ tên nó để nghe khẩu lệnh thực hiện các thao tác buồm là một việc không dễ dàng ?
Dây nhợ của buồmTrên cột treo buồm vuông , xà buồm dưới course yard nằm tại vị trí cố định ngay dưới sàn chân cột (top). Còn xà buồm đỉnh topsail yard khi không treo buồm thì nằm ngay phái trên sàn top một chút . Khi ta thượng buồm ,ta sẽ kéo xà dọc theo cột đỉnh cho nó lên tới vị trí cao nhất là nằm dưới các cây ngang crosstrees. Xà buồm ngọn topgallant yard được kéo từ vị trí thấp nhất là chỗ nằm ngay trên cây ngang crosstrees, đi dọc theo cột ngọn topgallant mast, cho tới vị trí cao nhất ngay dưới một chỗ có tên là topgallant standing rigging là nơi buộc tất cả dây chằng dọc stays, dây néo shrouds và dây chằng ngang backstays . Nằm trên vị trí đỉnh (topgallant standing rigging) là xà buồm vua royal yard, xà này được kéo dọc theo cột buồm đế vương royal mast, nhưng như đã nói phía trên , cột buồm ngọn topgallant mast và cột buồm đế vương royal mast thường chỉ là một .Nếu buồm đỉnh topsail được chia làm hai ,mà việc này thường xảy ra thì xà buồm đỉnh dưới được cố định tại một vị trí ngay đỉnh của cột dưới và chỉ có xà buồm đỉnh trên upper topsail yard được kéo lên . Sở dĩ như vậy vì các xà buồm đỉnh topsail yards làm thành một cặp khi buồm chưa được ghép lên . Với hai tấm buồm ngọn topgallant sails tình hình cũng tương tự như vậy ; xà buồm ngọn dưới lower topgallant yard được cố định trên đầu của cột buồm đỉnh topmast, và chỉ có xà buồm ngọn trên upper topgallant yard được kéo lên dọc theo cột buồm ngọn topgallant mast.Những dây sau đây dùng để thao tác một xà buồm :
Việc giải thích trình bày ở trên nghe có vẻ phức tạp và đầy lý thuyết nhưng qua vài ví dụ sau đây có thể giúp các bạn sáng tỏ hơn : Hình bên trái là một cột buồm nhìn từ phía đuôi tàu . Trên cột có treo bốn buồm vuông :một buồm dưới course, hai buồm đỉnh topsails và một buồm ngọn topgallant sail.Xà buồm dưới (course yard) và xà buồm đỉnh dưới (lower topsail yard) là cố định , còn các xà khác đang ở vị trí thấp nhất của chúng vì lúc này buồm chưa được giương lên .Tất cả các xà đều được treo buộc bằng dây chặn topping lifts (xanh da trời) trừ xà buồm đỉnh dưới (lower topsail yard) không có bởi vì nó đã nối với xà buồm đỉnh trên (upper topsail yard) bằng cánh buồm và những dây sheets mà ta không nhìn thấy trên hình vẽ . Hình bên phải là toàn bộ cánh buồm được giương lên . Xà buồm đỉnh trên (upper topsail yard)và xà buồm ngọn (topgallant yard) được kéo lên tới vị trí cao nhất mà chúng có thể có .Các dây chặn topping lifts (vẫn tô xanh da trời ) không còn tác dụng nữa ,nhưng do căng dây chặn của buồm dưới (course topping lifts) đã ảnh hưởng tới toàn bộ các xà buồm vì các xà được nối với nhau bằng buồm và các dây sheets. Khi thu buồm lại , ta kéo dây clewlines(đỏ) và dây buntlines (màu xám). Trên thực tế ,từ phái đuôi tàu ta không nhìn thấy dây buntlines vì nó chạy trên mặt trước của cánh buồm . Trên cánh buồm dưới (course) và buồm đỉnh dưới (lower topsail) dây clewlines kéo các góc clews về hai đầu của xà buồm , nhưng trên buồm ngọn (topgallant sail) dây đó kéo các góc về giữa xà . Buồm đỉnh trên (upper topsail) không có dây clewlines, nhưng các dây downhauls (màu da cam) dùng để kéo xà buồm đỉnh trên (upper topsail yard) xuống tới xà buồm đỉnh dưới (lower topsail yard). Ta cần chú ý rằng buồm dưới (course) cũng có các dây leechlines. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét