Thứ Tư, 14 tháng 1, 2015

LỄ TIỄN ĐƯA CHIẾN HẠM INGRAHAM VỀ HƯU


Ngày 12 tháng Mười Một vừa qua,tại quân cảng Everett ,phía Bắc Seattle Hoa Kỳ,người ta đã tổ chức một cái lễ long trọng tiễn đưa con tàu Ingraham thuộc Hạm đội thứ Tư của Hoa Kỳ “về hưu”,sau 25 năm phục vụ.Trong buổi lễ long trọng,đầy tình cảm đó,cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert Gates đã phát biểu,nhắc lại những chiến tích của chiến hạm,những đóng góp của một đội ngũ sĩ quan và thủy thủ tuyệt vời mà cách đây vài ngày họ vừa tham gia vào một chiến dịch lùng quét buôn bán ma túy trong vùng Trung và Nam Mỹ,đã tóm gọn một số hàng trị giá hơn 100 triệu USD.Ingraham là con tàu mang tên một thuyền trưởng dũng cảm Mỹ của thế kỷ 19 ,cũng là con tàu trong một loạt chiếc frigate thuộc lớp Oliver Hazard Perry ,mang tên của một thuyền trưởng anh hùng trong cuộc chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ vào năm 1812 mà sau đây ta gọi tắt là lớp Perry   .
Cựu Bộ trưởng Robert Gates nhắc lại quá trình của tàu Ingraham,một trong những con tàu của thời kỳ Chiến Tranh Lạnh
Tàu Ingraham tại Quân cảng Everett trước lúc lam lễ hạ cờ


- Sự ra đời của tàu frigate lớp Perry

Vào những năm 1970,nước Mỹ thấy cần thiết phải có một lớp frigate mới thay thế cho những chiến hạm sử dụng hồi Thế Chiến II và lớp tàu những năm 60.Công việc thiết kế được giao cho Xưởng Baith Iron ở Maine kết hợp với Công ty thiết kế tàu Gibbs tại Nữu Ước. Mục tiêu đặt ra là có được những chiến hạm trang bị tên lửa đạn đạo đối không và đối ngầm nhằm hộ tống trên biển khơi các tàu đổ bộ và các đoàn tàu buôn trong một môi trường đầy hiểm họa nổ ra một cuộc chiến tranh với Liên Xô và các nước trong khối Hiệp ước Warsawa. Các tàu đó cũng trang bị vũ khí có khả năng chống lại tên lửa đối không và đối hạm của những năm 1970 và 1980. Các chiến hạm đó được trang bị để hộ tống và bảo vệ các đội tàu đi theo tàu sân,các nhóm tàu đổ bộ ,các tổ tàu cung ứng đang trên đường đi và các đoàn tàu buôn .Các tàu này cũng có thể hoạt động độc lập như thám sát các hoạt động buôn lậu ma túy ,thực hiện các chiến thuật can thiệp hàng hải, và thao diễn với hải quân các nước.

  
  
Loại tàu :
Frigate
Lượng chiếm nước :
4.200 tấn đầy tải
Chiều dài :
Theo đường nước 124 m
Tối đa 136 m cho loại “vỏ ngắn”
138 m cho loại “vỏ dài”
Chiều rộng
14 m
Mớn nước :
6,7 m
Thiết bị đầy tàu :
2 × tua bin khí LM2500-30 của hãng General Electric công suất  41.000 CV (31 MW) ,qua một trục ra chân vịt biến bước
2 × tổ máy phụ 350 CV  (260 kW) kéo chân vịt mũi thruster chạy điện khi quay trở và cập cầu
Tốc độ:
Trên 29 hải lý/giờ (54 km/h)
Tầm hoạt động :
4,500 hải lý (8.300 km ) với tốc độ 20 hải lý/giờ  (37 km/h)
Định biên :
176
Các sensor và hẹ thống xử lý :
Radar: AN/SPS-49, AN/SPS-55, Hệ thống điều khiển hỏa lực Mk92
Sonar: SQS-56, SQR-19 Towed Array
Vũ khí điện tử & mồi nhử :
SLQ-32(V)2, Flight III và sidekick,
Mark 36 SRBOC
AN/SLQ-25 Nixie
Vũ khí :
Một bệ phóng đơn Mk 13 Missile Launcher với kho 40 tên lửa đạn đạo loại SM-1MR đối không và tên lửa Harpoon đối hạm.Từ năm 2003,đã tháo khỏi các chiến hạm Mỹ vì Mỹ ngưng sử dụng tên lửa SM-1
Hệ thống pháo hạm Mk 38 Mod 2 đặt trên nền của bệ phóng MK 13 đã tháo dỡ.
Hai ống phóng ngư lôi ba nòng chống ngầm Mark 32 dùng cho ngư lôi Mark 46 hay Mark 50 .
Một pháo hạm cỡ nòng 76mm/62 của hãng Ý OTO Melara
Một hệ thống vũ khí cận chiến (CIW)
Phalanx tức pháo cao tốc tự động, đạn 20 mm
Tám tên lửa siêu thanh AShM Hùng Phong (Hsiung Feng II) hay 4 chiếc HF-2 và  4 chiếc  HF-3 cùng với 2 pháo Bofors 40mm/L70  (chỉ dùng trên các tàu Đài Loan)
Máy bay chuyên chở :
Hai trực thăng nhiều công dụng thuộc hệ LAMP hỗ trợ tàu chống ngầm (với tàu “vỏ ngắn” là hai chiếc SH-2 Seasprite ,còn “vỏ dài” là hai chiếc SH-60 Sea Hawk)


Cuối cùng là đã có 55 chiếc được đóng tại hai xưởng Todd Shipyard tại Seattle và San Pedro Hoa Kỳ, 51 chiếc dùng cho Hải quân Hoa Kỳ,bốn chiếc dùng cho Hải quânÚc .Ngoài ra,theo thiết kế này , Đài Loan đóng 8 chiếc (họ gọi là lớp tàu Cheng Kung) , Tây Ban Nha sáu chiếc (lớp Santa Maria) và Úc đóng thêm hai chiếc (lớp Adelaide) ,tất cả dùng cho Hải quân của mỗi nước . Các chiến hạm cũ thuộc lớp này của Hải quân Hoa Kỳ sau đó được bán hay làm quà tặng cho hải quân các nước Bahrain, Ai Cập , Ba Lan , Pakistan, và Thổ Nhĩ Kỳ.

Lớp tàu Perry có hai phương án chiều dài :loại “vỏ ngắn” là 136 mét dùng cho trực thăng SH-2 Seasprite và”vỏ dài” 138 mét dùng cho trực thăng Seahawk SH-60 . Sau tàu khu trục lớp Spruance, các frigate lớp Perry là các chiến hạm mặt nước thứ hai của Hải quân Mỹ dùng tua bin khí . Khác với các tàu chiến khác cùng thời ,hệ thống động lực tua bin khí này được tự động hóa hơn hẳn và có thể điều khiển tập trung từ một trung tâm cách xa các tua bin . Cũng có thể điều khiển các tua bin khí đó nhằm thay đổi tốc độ tàu trực tiếp từ buồng lái ,thông qua việc kiểm soát nhiên liệu vào tua bin,một kiểu đầu tiên áp dụng cho chiến hạm Mỹ . Ngoài thiết kế cơ bản, các frigate này còn được bổ sung thêm Hệ thống Dữ liệu Tác chiến Hải quân (Naval Tactical Data System) , các trực thăng thuộc hệ thống săn ngầm (LAMPS) , và Hệ thống Chuỗi Chiến thuật được Kéo theo ( Tactical Towed Array System viết tắt là TACTAS) làm tăng thêm khả năng chiến đấu rất nhiều lần . Các frigate này rất phù hợp với các vùng ven bờ biển và với hầu hết kịch bản các cuộc hải chiến trên biển .

Những chiến tích đáng ghi nhớ của frigate lớp Perry :

Vào những năm 1980, các frigate thuộc lớp Perry đã hai lần nổi danh toàn cầu . Mặc dù nhỏ bé ,các con tàu này tỏ ra rất bền bỉ với sức chịu đựng rất lớn.Trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh ,vào ngày 17/05/1987, chiếc USS Stark bị không lực Iraq tấn công . Bị trúng hai tên lửa đối hạm Exocet , ba mươi bảy thủy thủ Mỹ tử nạn, một cú khởi đầu thê thảm của Chiến dịch “Earnest Will” nhằm chuyển đổi cờ quốc tịch các tàu buôn và hộ tống các tàu dầu vượt qua Vịnh Persic và Eo Hormuz. Chưa đầy một năm sau ,vào ngày 14/04/1988, chiếc frigate thứ hai có tên là Samuel B. Roberts trúng thủy lôi Iran khiến tàu gần như chìm hẳn .Không có thiệt mạng nhưng 10 thủy thủ bị thương đã được sơ tán khỏi con tàu .Thủy thủ tàu Roberts đã chiến đấu chống cháy và ngập lụt nhằm cứu tàu trong suốt hai ngày . Bốn ngày sau , Hải quân Hoa Kỳ đã trả đũa với Chiến dịch “Praying Mantis”, chỉ trong một ngày đã tấn công hai giàn khoan dầu của Iran đã được dùng làm căn cứ cho các cuộc không kích các tàu buôn . Đó cũng là căn cứ để thả thủy lôi làm hư hại tàu Roberts. Cả hai chiếc frigate sau đó được đưa về Mỹ sửa chữa và quay lại phục vụ bình thường .Chiếc USS Stark ngưng hoạt động vào năm 1999, và tới năm 2006 thì được phá dỡ .Còn chiếc Roberts hiện vẫn đang còn hoạt động và dự định sẽ “về hưu” vào năm 2015.

Những cải tiến các con tàu lớp Perry


 Vũ khí cận chiến Phalanx Block 1B mà thủy thủ gọi lóng là R2D2 vì nó giống nhân vật trong phim giả tưởng “Chiến tranh giữa các vì sao”



Để giảm giá thành ,Hải quân Mỹ và Úc đã cải tiến các chiếc Perry còn lại bằng cách thay diesel kéo máy phát điện từ loại Detroit sang máy Caterpillar .Giữa những năm 2000, Hải quân Mỹ tháo dỡ bệ phóng tên lửa Mk 13 vì tên lửa tiêu chuẩn SM-1MR đã ngưng sử dụng .Do không còn bệ phóng nên cũng loại trừ luôn các tên lửa đối hạm Harpoon.Tuy vậy ,các trực thăng Seahawk cũng có thể mang theo các tên lửa đối hạm Penguin và Hellfire có tầm ngắn hơn .9 con tàu cuối cùng của lớp này đã đặt hệ thống pháo hạm mới Mk 38 Mod 2 cỡ nòng 25 mm trên nền của bệ phóng tên lửa đã tháo đi . Trên các frigate lớp Perry còn đang hoạt động,vào năm 2002, Hải quân Mỹ đã nâng cấp vũ khí cận chiến CIWS Phalanx có năng lực "Block 1B" , tức là cho phép pháo Phalanx Mk 15 cỡ nòng 20 mm có thể bắn trúng các tàu mặt nước di chuyển nhanh và các trực thăng . Các tàu đó cũng trang bị hệ thống hệ thống mồi nhử tên lửa mới có tên là DLS "Nulka" Mk 53, hệ thống này tốt hơn là hệ thống SRBOC,phóng ra các mồi nhử và lửa hồng ngoại đang dùng để làm nhiễu, chống lại các tên lửa đối hạm .Người ta cũng dự định trang bị cho các tàu còn lại bệ phóng tên lửa RIM-116 ,đặt tại vị trí bệ phóng Mk-13 trước đây , nhưng việc đó vẫn chưa thực hiện được .Ngày 16/06/2009, Phó đô đốc Barry McCullough với lý do là các con tàu này đã cũ mòn và đã đạt tới giới hạn cần thay đổi nhằm bác bỏ ý kiến của Thượng Nghị sĩ lúc đó tên là Mel Martinez (bang Florida) đề nghị vẫn tiếp tục sử dụng lớp Perry này . Tuy vậy, nghị sĩ bang Florida tên là Ander Crenshaw và nguyên nghị sĩ bang Missisipi tên là Gene Taylor nêu ra các lý do cần kéo dài thời hạn phục vụ các con tàu này .Theo kế hoạch các frigate lớp Perry cuối cùng vào năm 2019 sẽ được thay thế hết bởi lớp tàu mới, đó là các tàu chiến ven bờ LCS (Littoral Combat Ships). Tuy vậy,việc cho các tàu frigate cũ về hưu nhanh hơn là tốc độ đóng mới các tàu LCS khiến cho phía Nam Hoa Kỳ thiếu hẳn những con tàu tuần tra . Theo kế hoạch cho ngừng hoạt động các con tàu của Hải quân thì tất cả các frigate lớp Perry sẽ về hưu hết vào tháng Mười năm 2015, tạo ra cho Hoa Kỳ một tình trạng không có một chiếc frigate nào,một hiện tượng chưa từng xảy ra suốt 70 năm qua ! Chiếc Kauffman là chiếc cuối cùng dự định cho về hưu vào ngày 21/09/2015, sẽ tạo nên một tình cảnh là Hải quân Mỹ không còn một chiếc frigate nào,một tình cảnh xảy ra lần đầu tiên kể từ năm 1943. Các con tàu hoặc được bán cho hải quân nước ngoài hoặc được phá dỡ .Việc bắt các tàu lớp Perry về hưu nhanh chóng chẳng qua do sức ép của ngân sách,sẽ dẫn tới tình trạng 11 chiếc còn lại sẽ chỉ được thay thế bằng tám chiếc LCS .

Để tiết kiệm tiền bạc, Cảnh sát Biển Hoa Kỳ US CG đã tranh thủ lột các bộ phận vũ khí từ các con tàu lớp Perry của Hải quân hết hạn sử dụng .Kết quả là từ bốn con tàu frigate hết hạn sử dụng,họ đã tiết kiệm được trên 24 triệu USD ,nếu lấy thêm nhiều bộ phận khác trên các con tàu thì còn tiết kiệm được hơn nữa .Những thiết bị thu được gồm pháo hạm Mk 75, 76 mm/62 , khối điều khiển hỏa lực ,các giàn đạn , bệ phóng , các hộp nối và nhiều thành phần khác được đưa vê sử dụng trên các tàu tuần tra cutter của Cảnh sát biển thuộc lớp Famous ,nhằm kéo dài thời gian sử dụng các con tàu này tới những năm 2030. Vào ngày 11/05/2009, tại Quân cảng Mayport Hoa Kỳ ,nhóm Công tác Quốc tế về tàu frigate (International Frigate Working Group) đã họp phiên đầu tiên để cùng thảo luận về các vấn đề phát sinh trong khi bảo dưỡng, cho ngừng sử dụng cũng như việc logistics cho các tàu lớp Perry giữa Hải quân Mỹ và các nước đồng minh

1- Tình hình các tàu Perry ngoài nước Mỹ

Úc

Úc đã mua 6 chiếc ,mà họ đặt tên là lớp Adelaide ,trong đó có 4 chiếc đóng tại Mỹ còn hai chiếc làm tại Úc. class): The Royal Australian Navy purchased six frigates. Four of them were built in the United States while the other two were built in Australia. Four of the ships were upgraded with the addition of an eight-cell Mk 41 VLS with 32 Evolved Sea Sparrow (ESSM) missiles, and the Standard Missile SM-2, plus upgraded radars and sonars while the other two ships were decommissionedNước Úc đã chi 1,46 tỷ đô la Úc để nâng cấp các frigate này mà họ gọi là lớp Adelaide trong đó có việc trang bị tên lửa tiêu chuẩn SM thế hệ 2 , bổ sung hệ thống phóng thẳng đứng 8 ổ Mk-41 dùng cho tên lửa Evolved Sea Sparrow và đặt các radar thám không và sonar cự ly xa ,có chất lượng tốt hơn .Chiếc đầu tiên được nâng cấp là chiếc HMAS Sydney đã trở lại hạm đội vào năm 2005. Bốn chiếc sau này ,mỗi chiếc phải nằm lại tại Xưởng Garden Island tại Sydney từ 18 tháng tới 2 năm để thực hiện công cuộc hoán cải .Theo kế hoạch,bắt đầu từ năm 2013, các chiếc frigate này sẽ được thay thế bằng ba chiếc tàu khu trục đối không thuộc lớp Hobart có trang bị hệ thống AEGIS.Tuy vậy ,chiếc thứ ba trong số các con tàu này được đưa vào sử dụng sớm nhất là tới năm 2017.Chi phí sẽ được bù đắp một phần trong ngắn hạn ,do việc cho ngừng hoạt động và phá dỡ hai tàu frigate cũ .Chiếc HMAS Canberra đã được ngưng hoạt động vào ngày 1/11/2005 tại Căn cứ Hải quân HMAS Stirling ở miền Tây Úc cỏn chiếc HMAS Adelaide cũng ngưng hoạt động tại căn cứ đó vào ngày 20/01/2008.

Thổ Nhĩ Kỳ

Tám chiếc Perry cũ đã được Mỹ chuyển nhượng cho Thổ Nhĩ Kỳ ,mà họ đặt tên là lớp G. Hải quân nước này đã hiện đại hóa mạnh mẽ các tàu frigate này bằng việc áp dụng hệ thống quản lý chiến đấu có tên là GENESIS (Gemi Entegre Savaş İdare Sistemi) .Cũng giống như Úc với lớp Adelaide, họ thêm vào một hệ phóng thẳng đứng VLS Mk-41 với 8 ổ để phóng tên lửa Evolved Sea Sparrow trong tầm gần cũng như các tên lửa SM-1 tầm xa ; hệ thống số hóa tiên tiến nhằm điều khiển hỏa lực và những chiếc sonar mới do Thổ Nhĩ Kỳ tự chế tạo . Chiếc đầu tiên có tên là F-495 TCG Gediz, được nâng cấp GENESIS đã được bàn giao vào năm 2007, và chiếc cuối cùng vào năm 2011 .Các tàu thuộc loại vỏ ngắn được Xưởng Hải quân Gölcük của Thổ Nhĩ Kỳ cải tiến để có thể cho trực thăng S-70B Seahawk hoạt động . Một trong những tàu lớp G cũng được Viện Kỹ thuật Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ đem ra làm vật thí nghiệm xây dựng tàu frigate đối không AAW (anti-aircraft) lớp TF-2000 có trọng lượng chiếm nước trên 6000 tấn .

Bahrain:

Vào năm 1996 ,nước này mua chiếc USS Jack Williams từ chính phủ Mỹ và đổi tên thành Sabha.

Ai Cập : Có bốn chiếc lớp Perry được Hải quân Mỹ chuyển nhượng .

Pakistan: Được chuyển nhượng sáu chiếc .Chiếc USS McInerney được chuyển nhượng vào tháng Tám năm 2010

Ba Lan: được Hải quân Mỹ chuyển nhượng hai cái vào các năm 2000 và 2003, và được mang tên hai vị anh hùng dân tộc Ba Lan chống Nga Hoàng cũng là anh hùng đã chiến đấu trong cuộc chiến tranh giành độc lập cho Hoa Kỳ ,đó là tướng K.Pulaski (1745-1779) và tướng T. Kosciuszko (1746-1817) trong đó tướng K.Pulaski đã hy sinh ngay trên đất Mỹ trong trận chiến Savannah chống lại quân Anh .

-Tàu mang tên tướng K.Pulaski có tên đầy đủ là “ORP Generał Kazimierz Pułaski” với quân hiệu là FF- 272 ,trong đó chữ ORP viết tắt các chữ Ba Lan có nghĩa là tàu của Hải quân Ba Lan .Tàu này chính là chiếc frigate Clark của Mỹ được về hưu ngày 15/03/2000 và được chuyển cho Ba Lan ngay trong ngày hôm đó.Ngày 25/06/2000 con tàu làm lễ đổi tên ,có bà Madeleine Albright tham dự và chỉ huy Ba Lan đầu tiên của con tàu là Marian Ambroziak.Cảng mẹ của con tàu này là Quân cảng Gdynia (Oksywie) và đã tham dự nhiều cuộc diễn tập của khối NATO.

-Tàu mang tên tướng T. Kosciuszko có tên đầy đủ là “ORP Generał Tadeusz Kościuszko” quân hiệu là FF-273, trước đây là tàu USS Wadsworth (FFG-9) được Mỹ chuyển giao ,có cùng cảng mẹ như tàu Pulaski và cũng tham gia nhiều cuộc diễn tập của khối NATO trên biển Baltic.

Để nâng cấp hai con tàu này,tháng 11/2013 Ba Lan đã ký hợp đồng với Mỹ trị giá 34 triệu USD để nâng cấp tàu Pulaski.Việc nâng cấp tập trung vào các thiết bị điện tử và các sensor cũng như thay đổi hệ thống đẩy tàu và công việc dự kiến sẽ hoàn tất vào năm 2016.

Trong việc hoán cải có việc đổi vũ khí cận chiến CIWS Phalanx Mk 15 cỡ 20mm từ MK15 Block 0 chuyễn thành MK15 Block 1B, có cấu hình Baseline 2 , có khả năng xử lý các các xuồng tàu cao tốc ,các trực thăng ,các tàu không người điều khiển UAV cũng như tên lửa của đối phương . Kèm theo là các phụ tùng dự trữ và dụng cụ kiểm tra ,các ấn phẩm,tài liệu kỹ thuật ,việc huấn luyện sử dụng .



Đài Loan Tự đóng lấy 8 chiếc tại Xưởng đóng tàu tại Kaoshiung (Cao Hùng) ,mang tên lớp Cheng Kung và trang bị tám tên lửa đối hạm Hsiung Feng II , trong đó có chiếc Cheng Ho (PFG-1103) mang bốn chiếc HF-2 và bốn chiếc tên lửa đối hạm siêu thanh HF-3 .Bảy chiếc còn lại trang bị thêm pháo Bofors 40 mm loại L70 dùng cho cả đối đất lẫn đối không . Ngày 5/11/2012 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Đài Loan Cao Hoa Trụ tuyên bố rằng chính phủ Mỹ sẽ bán cho nước này thêm hai chiếc Perry chuẩn bị về hưu với giá 240 triệu USD ,tàu sẽ được hoán cải nâng cấp và bàn giao vào năm 2015

Tây Ban Nha Tự đóng lấy 6 chiếc từ năm 1986 tới 1994 tại hai xưởng ở Badan và Ferrol và mang tên là frigate lớp Santa Maria .Tất cả 6 chiếc vẫn đang hoạt động

Thái Lan : Chính phủ Mỹ chuyển nhượng cho Hải quân Thái hai chiếc lớp Perry cũ ,đó là chiếc USS Rentz và chiếc USS Vandegrift (sẽ bàn giao năm 2015)



2- Quay trở lại với chiếc Ingraham

Không rõ vì lý do gì,thủy thủ Mỹ với tiếng lóng gọi con tàu này là “The Ham” tức là miếng thịt lợn xông khói trong khi motto tức khẩu hiệu của con tàu này là “Di sản của sự sang trọng,lịch sự “ (Heritage of Gallantry) ! . Ingraham thuộc loại có “vỏ dài” trong lớp Perry,với cảng mẹ là Quân cảng Everett thuộc bang Washington, tây bắc nước Mỹ. Được làm lễ đặt ky tức khởi công vào ngày 30/03/1987 tại Xưởng Todd Pacific ở San Pedro, California và hạ thủy ngày 25/06/1988,từ tháng Sáu năm 2014, con tàu dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng CDR Dan Straub, và phiên chế trong Destroyer Squadron 9.



Ngày 6/01/2008, tàu khu trục Hopper, tàu tuần dương đạn đạo Port Royal , và tàu frigate Ingraham tiến vào vịnh Persic và Eo Hormuz trong lúc có 5 chiếc xuồng máy Iran với tốc độ cao tiến đến gần với dáng vẻ có ý đe dọa .Các tàu chiến này-theo như phía Mỹ thông báo-tiến vào Biển Arab nhằm tìm kiếm một thủy thủ của tàu Hopper bị mất tích một ngày trước đó .Phía Mỹ cho biết các xuồng máy Iran tiến sát các tàu chiến ,có lúc chỉ còn cách 200 yards tức là 180 mét và nhận được những lời đe dọa qua sóng vô tuyến “Chúng tôi đang tiến tới các anh .Các anh sẽ nổ tung sau vài phút “.Trong khi các tàu chiến Mỹ chuẩn bị nổ súng thì xuống máy Iran bất ngờ quay ngược lại và biến mất ném trước mặt các tàu Mỹ những hộp màu trắng,mà Mỹ bỏ qua không xem xét .Trước sự kiện này,hai bên đưa ra những bình luận khác nhau.Iran cho là họ đang tiến hành các công việc bình thường trong khi các quan chức Mỹ lại cáo buộc đó là một hiểm nguy đang kể với các tàu chiến Mỹ đang hoạt động trong vùng .Ngày 29/09/2009, Ingraham tiến tới Samoa thuộc Mỹ và là con tàu Mỹ đầu tiên tới đây để hỗ trợ các nạn nhân sau vụ động đất tại quần đảo này .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét